Thứ Ba, 19 tháng 7, 2016

Phán quyết Biển Đông: Lợi và hại đối với Việt Nam


Phán quyết Biển Đông: Lợi và hại đối với Việt Nam
Lê Hồng Hiệp -Phán quyết của Tòa trọng tài về vụ kiện của Philippines đối với Trung Quốc là một cột mốc lịch sử trong tiến trình tranh chấp Biển Đông. Là một trong những bên tranh chấp chính, Việt Nam đã hoan nghênh việc Tòa ra phán quyết, và nói rằng sẽ đưa ra một tuyên bố riêng về nội dung của phán quyết này. Tuyên bố dự kiến sẽ giúp làm sáng tỏ cách hiểu của Việt Nam đối với phán quyết, đồng thời cung cấp các manh mối về việc Việt Nam có thể sẽ xử lý tranh chấp như thế nào trong tương lai.

Tác động của phán quyết đối với Việt Nam
Việt Nam được hưởng lợi đáng kể từ phán quyết, nhưng cũng phải đối mặt với một số tác động tiêu cực đối với các tuyên bố chủ quyền của mình ở Quần đảo Trường Sa.

Hai điểm trong phán quyết của Tòa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam. Thứ nhất, Tòa tuyên bố yêu sách “quyền lịch sử” của Trung Quốc dựa trên đường chín đoạn là không phù hợp với Công ước năm 1982 của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Thứ hai, Tòa xác định không thực thể nào thuộc Quần đảo Trường Sa đủ tiêu chuẩn của một hòn đảo theo Điều 121 (3) của UNCLOS. Như vậy, các thực thể này tối đa chỉ được hưởng một vùng lãnh hải 12 hải lý mà không được hưởng một Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) có thể mở rộng đến 200 hải lý.

Những phán quyết này đã thu hẹp đáng kể phạm vi tranh chấp biển giữa Trung Quốc và Việt Nam. Từ giờ trở đi, sẽ không còn vùng chồng lấn giữa đường chín đoạn của Trung Quốc với EEZ của Việt Nam, cũng như giữa EEZ giả định của một số thực thể nhất định trong Quần đảo Trường Sa và EEZ của Việt Nam tính từ đất liền.

Phán quyết của Tòa cũng đặt ra một tiền lệ pháp lý quan trọng giúp Việt Nam xử lý tranh chấp với Trung Quốc đối với vùng biển xung quanh Quần đảo Hoàng Sa. Do các thực thể thuộc Quần đảo Hoàng Sa cũng tương tự như các thực thể ở Trường Sa về quy mô và tính chất, chúng nhiều khả năng cũng không có EEZ. Ngoài ra, phán quyết của Tòa cho rằng Quần đảo Trường Sa không thể được hưởng các vùng biển với tư cách là một thực thể thống nhất cũng có thể áp dụng được đối với Quần đảo Hoàng Sa. Như vậy, đường cơ sở thẳng mà Trung Quốc thiết lập xung quanh quần đảo này hồi năm 1996 sẽ không còn giá trị nữa.

Trong các sự cố trên biển giữa hai nước trước đây, trong đó có việc Trung Quốc mời thầu 9 lô dầu khí thuộc EEZ của Việt Nam hồi năm 2012 và triển khai giàn khoan Hải Dương 981 trong EEZ của Việt Nam hồi năm 2014, Trung Quốc đã biện minh bằng cách viện dẫn tới các quyền của mình trong phạm vi đường chín đoạn hay vùng EEZ giả định của hai quần đảo. Với hai phán quyết trên, Việt Nam hiện có một cơ sở pháp lý vững chắc để ngăn chặn sự xâm phạm của Trung Quốc vào EEZ của mình trong tương lai.

Tuy nhiên, phán quyết cũng tạo ra một số tác động tiêu cực đối với tuyên bố chủ quyền của Việt Nam ở Quần đảo Trường Sa. Ví dụ, do Tòa tuyên bố rằng không thực thể nào thuộc Quần đảo Trường Sa được hưởng EEZ, quyền tiếp cận của ngư dân Việt Nam đối với ngư trường quan trọng này có thể bị giảm xuống đáng kể. Cụ thể, họ sẽ mất quyền đánh cá trong các vùng nước bên trong EEZ của Philippines và ngoài vùng lãnh hải của các thực thể đủ tiêu chuẩn thuộc Quần đảo Trường Sa. Việt Nam cũng có thể sẽ phải từ bỏ tuyên bố chủ quyền của mình đối với Bãi Vành Khăn và Bãi Cỏ Mây vốn được Tòa tuyên bố là các thực thể lúc chìm lúc nổi (LTEs) và thuộc về thềm lục địa của Philippines.
Quan trọng hơn, Việt Nam cũng có thể sẽ phải từ bỏ tuyên bố chủ quyền đối với các đá Tốc Tan và Núi Le, những thực thể đang thuộc quyền kiểm soát của Việt Nam. Những thực thể này, được các chuyên gia xác định là các bãi lúc chìm lúc nổi, nằm trong vùng EEZ của Philippines và bên ngoài lãnh hải của các thực thể xung quanh. Theo UNCLOS, các thực thể này không phải là đối tượng của các tuyên bố chủ quyền, và Philippines có quyền chủ quyền đối với chúng. Mặc dù phán quyết của Tòa không trực tiếp đề cập tới các thực thể này, Việt Nam có thể bị Philippines yêu cầu từ bỏ chúng.

Tuy nhiên, cần xác định rằng, phán quyết của Tòa trọng tài không giải quyết vấn đề chủ quyền của các thực thể, vì vậy những tác động tiêu cực trên chỉ mới là những khả năng, phụ thuộc vào đàm phán giữa Việt Nam và Philippines, cũng như mức độ tuân thủ của Trung Quốc. Nếu Trung Quốc không tuân thủ phán quyết, nguyên trạng tại Trường Sa nhiều khả năng sẽ không thay đổi.

Tác động tới quan hệ của Việt Nam với Philippines và Trung Quốc

Như vậy, phán quyết của Tòa vừa tăng cường sức mạnh đàm phán của Việt Nam đối với Trung Quốc, vừa làm suy yếu vị thế thương lượng của ta trước Philippines.
Tuy nhiên, Việt Nam có thể vẫn sẽ ủng hộ phán quyết vì các lợi ích mà phán quyết mang lại nhìn chung vượt xa các thiệt hại có thể có. Hơn nữa, Việt Nam vẫn có thể đàm phán với Philippines về quyền đánh cá của mình cũng như việc chiếm đóng các thực thể lúc chìm lúc nổi nêu trên. Dẫu sao, do Việt Nam và Philippines là các “đồng minh trên thực tế” trong vấn đề tranh chấp Biển Đông nên phán quyết nhiều khả năng sẽ không gây tác động tiêu cực tới quan hệ song phương, ít nhất là trong ngắn hạn.

Còn về quan hệ Việt -Trung, các tiền lệ được thiết lập bởi phán quyết của Tòa sẽ giúp chúng ta nhiều khả năng giành phần thắng nếu tiến hành một vụ kiện tương tự về Quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, Việt Nam không nên khởi động tiến trình này ngay vì làm như vậy sẽ gây ra sự thù địch dữ dội từ phía Trung Quốc và gây bất ổn quan hệ song phương, điều Việt Nam chưa sẵn sàng đối phó. Thay vào đó, chúng ta nên để mở lựa chọn pháp lý này và sử dụng nó như là một đòn bẩy mặc cả trong việc xử lý quan hệ với Trung Quốc.

Tóm lại, Việt Nam sẽ đo lường phản ứng của mình một cách cẩn thận để tối đa hóa lợi ích thu được từ phán quyết của Tòa. Đồng thời, việc Việt Nam ủng hộ Philippines ngay từ giai đoạn đầu của quá trình trọng tài ngụ ý rằng Việt Nam đã sẵn sàng chấp nhận những tác động tiêu cực có thể có của phán quyết đối với lợi ích của mình. Mặc dù vậy, chính sách Biển Đông và hành động trên thực địa của Việt Nam trong thời gian tới sẽ phụ thuộc chủ yếu vào mức độ tuân thủ của Trung Quốc đối với phán quyết, cũng như tình trạng quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc và Philippines trong tương lai.

Trước mắt, Việt Nam chưa cần phải vội vàng hành động.

Tác giả: Lê Hồng Hiệp
TS Lê Hồng Hiệp là nghiên cứu viên chính tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS – Yusof Ishak Institute), Singapore. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.

Một phiên bản tiếng Anh của bài viết đã được xuất bản trên tờ TODAY (Singapore) tại ĐÂY.
(Nghiên Cứu Quốc Tế)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét