Chủ Nhật, 1 tháng 3, 2015

Các mô hình toàn cầu hóa

Ngày xuân nói chuyện viễn tưởng: 
Các mô hình toàn cầu hóa
Bùi Văn Nam Sơn - (TBKTSG) - Thế giới đang đầy rẫy xung đột, nhưng tiến trình toàn cầu hóa dường như vẫn cứ tiếp diễn. Hai hiện tượng mâu thuẫn ấy sẽ triệt tiêu nhau, sẽ tiếp tục song hành hay sẽ hòa giải với nhau một cách nào đó?

Thế hệ trẻ chung tay tiếp nối xây dựng một Việt Nam 
giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Ảnh: MINH KHUÊ
Việc đánh giá tình hình tùy thuộc vào sự lựa chọn lý thuyết nào về toàn cầu hóa. Ngay bản thân khái niệm “toàn cầu hóa” cũng rắc rối. Người bảo rằng nó đã bắt đầu vào thế kỷ 15, người bảo từ thế kỷ 19, hoặc chỉ mới từ vài thập niên gần đây thôi. Xu hướng chung sẽ dẫn đến sự thống nhất hoặc sự đa dạng hoặc cả hai vẫn còn gây tranh cãi. Khó khăn, trước hết, có lẽ nằm ngay trong bản thân khái niệm “toàn cầu hóa”.

Trong từ “toàn cầu hóa” có chữ “toàn cầu”, hiểu như quả địa cầu, hình như xuất hiện lần đầu tiên năm 1492 nơi Martin Behaim, đầu thời cận đại. Nhưng, nó không còn mang nghĩa biểu tượng vừa thần học vừa chính trị như quả táo trong lòng bàn tay các bậc đế vương ngày trước. Nó đã bắt đầu mang nghĩa thế tục như là biểu trưng của thời đại mới, trong đó mọi địa điểm đều có hai tính chất: có thể đến được và có thể khai thác được.

Từ đó, “địa cầu” và các lý thuyết về “toàn cầu hóa” đi liền với nhau như bóng với hình. Tuy nhiên vẫn có sự khác biệt. Một số lý thuyết toàn cầu hóa xem “quả địa cầu” như một tấm địa đồ với nhiều góc cạnh phức tạp hơn là một quả táo tròn vo. Cách nhìn này lập tức bị nhiều lý thuyết khác lấn át. Theo đó, “quả địa cầu” lần đầu tiên cho phép ta nhìn và mô tả trái đất theo không gian ba chiều một cách toàn vẹn, không cần quan tâm lắm đến những góc cạnh lồi lõm! Họ nhìn trái đất từ bên ngoài bằng cái nhìn “toàn cầu”, không khác mấy với nhà du hành vũ trụ nhìn về quả đất từ không gian xa thẳm. Tùy theo chỗ đứng, ta nhìn sự vật một cách khác nhau.

Ở đây, các lý thuyết về toàn cầu hóa cũng giống như thế.


Bước vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21, ai cũng thấy cần phải điều hòa hai lối nhìn nói trên: thấy cây không thấy rừng lẫn thấy rừng không thấy cây. Từ đó có khẩu hiệu: tư duy toàn cầu, hành động địa phương! Toàn cầu hóa, như thế, phức tạp hơn mới thoạt nhìn. Nó thực chất chỉ là “Tây phương hóa” với kẻ thắng người bại?
Hoặc là cơ hội lịch sử cho mọi người cùng thắng? Chưa ai biết, nhưng ít ra có hai thực tế không thể phủ nhận: các thị trường tài chính được toàn cầu hóa (với tất cả các nội hàm phong phú của chúng, gồm cả công nghệ, thương mại và truyền thông) đang ngày càng gia tăng áp lực lên các quốc gia, và, trào lưu dân chủ hóa - cũng trên phạm vi toàn cầu - đang và sẽ là dòng thác chảy xiết với ngày càng nhiều những định chế và tổ chức quốc tế cùng với các tác nhân phi nhà nước khác. Các nhà nước-dân tộc, thành tựu của thời cận đại, ngày càng bị thu hẹp quyền năng và phạm vi hoạt động.
Câu hỏi đặt ra: có thể giữ nguyên ba hình thức chính trị quen thuộc trước nay: nhà nước đô thị cổ đại - các đế chế - các nhà nước - dân tộc? Có thể có hình thức “cai trị” mới vượt ra khỏi khuôn khổ nhà nước - dân tộc? Và nếu có, làm sao diễn ra được với tinh thần và phương thức dân chủ đích thực như khát vọng chung? Nói ngắn, có triển vọng về một nền dân chủ toàn cầu?
Nền dân chủ, trong lịch sử, chỉ mới biết đến hai hình thức: nền dân chủ ở quy mô nhỏ nơi các thành quốc Hy Lạp cổ đại, rồi ở quy mô rộng hơn nơi các nền cộng hòa đại diện như là thành quả của Cách mạng Mỹ và Cách mạng Pháp. Liệu có thể có một nền dân chủ rộng lớn ở quy mô toàn cầu với số lượng công dân khổng lồ, hết sức đa dạng về ngôn ngữ, văn hóa, truyền thống? Làm sao bảo đảm quyền tham dự và quyền cùng quyết định ở quy mô như thế?
May thay, chính trị thế giới không phải là hiện tượng tự nhiên của trời đất mà kỳ cùng là do quyết định của con người, nghĩa là, có thể biến đổi được nếu người ta muốn.
Ngày xuân, thử điểm qua bốn mô hình chính trị về toàn cầu hóa đang được thảo luận: nhà nước thế giới, cộng hòa thế giới, dân chủ toàn cầu (global democracy) và quản trị toàn cầu (global governance). Từ không tưởng đến kỹ trị, từ mơ mộng đến vận hành thông qua những tác nhân và tổ chức quốc gia, xuyên quốc gia, siêu quốc gia, bốn mô hình đều ít nhiều chia sẻ một cao vọng: hợp nhất dân chủ với các cấu hình chính trị quy mô lớn.
Khái niệm cổ điển về dân chủ đã thích hợp với nền dân chủ cổ đại và các nhà nước dân tộc cận và hiện đại. Bây giờ, khái niệm dân chủ cần điều chỉnh cho phù hợp với khuôn khổ của “khối” và toàn cầu.
Mô hình 1: nhà nước thế giới
Trước hết là hai mô hình... phản dân chủ vào đầu thế kỷ 20: một của Huxley (1932) và một của H.G. Wells (1903). Huxley vẽ ra một nhà nước thế giới sẵn sàng hy sinh sự tự do của con người nhân danh sứ mạng mang lại hạnh phúc. Wells thì đề xướng sự cai trị của một tầng lớp ưu tú, độc lập và trung lập đối với mọi thế giới quan. Thật ra, đây chỉ là phiên bản mới của “nhà nước cộng hòa” của Plato với sự cai trị của những ông vua - triết gia.
Phiên bản khác đáng chú ý hơn là của Arnold Toynbee qua công trình nghiên cứu lịch sử văn hóa đồ sộ gồm 12 tập (1934-1946). Trong bối cảnh Chiến tranh lạnh, để bảo đảm hòa bình, năm 1969, Toynbee càng thấy nhà nước thế giới là cần thiết. Nhưng, sự hợp nhất chính trị không thể bền vững nếu thiếu một cơ sở tinh thần thống nhất: ông đề nghị một sự hòa đồng tôn giáo, gọi là tôn giáo phổ quát, hợp nhất Ki tô giáo, đạo Islam, Ấn Độ giáo và Phật giáo đại thừa! Mô hình của Toynbee ngày nay đã bị lãng quên, nhưng hai ý tưởng lớn của ông vẫn còn giá trị: ý tưởng về một lịch sử phổ quát của nhân loại, vượt khỏi khuôn khổ và lịch sử của nhà nước dân tộc để quan tâm nhiều hơn đến lịch sử các nền văn minh. Thứ hai là ý tưởng về sự thống nhất tinh thần của nhân loại làm cơ sở cho trật tự thế giới mới. Nếu Karl Jaspers nhấn mạnh đến “bước nhảy của ý thức” nơi các đại triết gia, thì Toynbee cũng đòi hỏi một sự “tăng tiến tâm linh chưa từng có trước đó” khiến cho nhân loại có ý thức về sự thống nhất của chính mình. Bước nhảy của các “đại” triết gia thì quá cao xa, đặc tuyển, còn ý thức nhân loại của Toynbee - thể hiện qua “tôn giáo phổ quát” - thì lại quá nhân tạo, khó thành hiện thực!
Nhìn chung, mô hình nhà nước toàn cầu khó có thể giải quyết hai nghịch lý mà Kant cũng đã thấy khi đề xướng “nền hòa bình vĩnh cửu” qua hình thức liên hiệp các nhà nước (thật ra dự kiến chỉ cho châu Âu hơn là cho toàn thế giới). Nghịch lý thứ nhất: nếu không có nhà nước toàn cầu, các nhà nước dân tộc tiếp tục tự tung tự tác như trước nay. Có nhà nước toàn cầu, chủ quyền của các nhà nước dân tộc bị xâm phạm. Ngay cả các siêu cường cũng không ưa thích gì nhà nước toàn cầu, một hình thức trói buộc họ, trừ khi cả nhân loại phải đương đầu với thảm họa diệt vong hiện thực. Nghịch lý thứ hai liên quan đến hòa bình thế giới. Khái niệm “nhà nước thế giới”, một mặt, không cho phép một ai đứng ngoài nó cả, mặt khác, phải cương quyết loại trừ những ai tỏ ra chống lại nó! Viễn tượng nội chiến - bây giờ là nội chiến toàn cầu - là không thể tránh khỏi. Khái niệm “nhân loại” và “hòa bình thế giới” sẽ không còn hồn nhiên vô tội khi đi vào lĩnh vực chính trị và khi ai cũng có quyền nhân danh chúng. Một mô hình giàu thiện chí nhưng đậm nét viển vông, không tưởng!
Chính trị thế giới không phải là hiện tượng tự nhiên của trời đất mà kỳ cùng là do quyết định của con người, nghĩa là, có thể biến đổi được nếu người ta muốn.
Mô hình 2: cộng hòa thế giới
Do Otfried Höffe gợi ý, phát triển mô hình liên hiệp các nhà nước trước đây của Kant. Các nhà nước dân tộc vẫn tiếp tục tồn tại, còn nền cộng hòa thế giới chỉ là phần bổ sung, như một nhà nước thứ cấp. Nhiệm vụ của nó là bảo vệ nhân quyền và hòa bình cùng với các tiêu chuẩn tối thiểu về an sinh xã hội và an toàn môi trường.
Cộng hòa thế giới phải là nhà nước pháp quyền toàn cầu nhưng... “mềm” (soft legislation, soft world republic).
Mô hình này gần thực tế hơn mô hình trước, nhưng lại vấp phải nghịch lý thứ ba: quyền lực của nó phải lớn hơn quyền lực của mọi siêu cường cộng lại, lớn hơn mọi liên minh cục bộ. Tìm đâu ra quyền lực ấy? Sự song hành của nhà nước dân tộc và cộng hòa thế giới đặt ra vấn đề tranh chấp quyền lực. Ai giải quyết nó và giải quyết thế nào để không trở nên bất lực như các định chế Liên hiệp quốc hiện tại? Sự bảo vệ nhân quyền dựa trên quan niệm nào về con người? Con người cá nhân nguyên tử theo kiểu Hobbes thông qua tiến trình thương thảo và trao đổi như nơi thị trường? Nếu ai đó không có gì để “cho” và “nhận”, làm sao trao đổi và nhân quyền sẽ còn là gì? Höffe chỉ còn cách quay về với đạo đức học siêu nghiệm của Kant: nhân quyền là giá trị bất khả thương thảo, bất khả chuyển nhượng và không cần biện minh!
Mô hình 3: dân chủ toàn cầu
Tiêu ngữ của Anthony Giddens, David Held và Ulrich Beck. Một xu hướng dân chủ xã hội, tìm con đường thứ ba giữa cánh tả (sau sự sụp đổ của Liên xô và Đông Âu) và cánh hữu (chủ nghĩa tân - tự do). Cả ba thống nhất ở cách nhìn xã hội hiện đại như là hậu - truyền thống, phản tỉnh và cá nhân hóa, nhưng có đặc điểm chung là một xã hội “thiếu an toàn” (Giddens) và “đầy nguy cơ” (Beck).
Xã hội cá nhân hóa cần bắt tay với viễn tượng dân chủ hóa toàn cầu, như là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Đi vào cụ thể, cần cải cách Liên hiệp quốc một cách sâu rộng với các hình thức mới: nghị viện thế giới, hành pháp thế giới, tòa án thế giới và hội đồng thỉnh nguyện. Nơi đó, các tác nhân phi nhà nước, các tổ chức quốc tế và xuyên quốc gia cùng hợp tác hành động.
Ulrich Beck đưa ra thuyết “Hiện đại thứ hai”. Hiện đại thứ nhất đã hướng đến sự tiến bộ và phát triển qua quá trình công nghiệp hóa. Hiện đại thứ hai nhằm giải quyết những hệ quả do hiện đại thứ nhất gây ra và để lại.
Để hướng đến nền dân chủ toàn cầu, cần “tái phát hiện cái chính trị”, vượt ra khỏi ranh giới giữa cái riêng tư và cái công cộng, giữa bên trong và bên ngoài. “Chính trị”, theo Beck, không còn là một lĩnh vực riêng biệt, mà trở thành việc làm phi không gian, không để cho nhà nước độc quyền nữa.
Ba đặc điểm chủ đạo của hiện đại là sự biến đổi văn hóa gia tốc, sự tiêu biến của khoảng cách không gian và sự tương đẳng của các nền văn minh đều đã và đang đi những bước quanh co.
Mô hình 4: quản trị toàn cầu
Không đi theo mô hình nhà nước hay dân chủ mà nhấn mạnh đến “kỹ thuật điều hành”, đến “thể thức thực thi”, bao gồm mọi hình thức, dù dân chủ hay không. Tất cả xuất phát từ thực tế gia tốc của tiến trình toàn cầu hóa hầu như trên mọi lĩnh vực: truyền thông, thương mại, giao thông... trong một thế giới ngày càng nhỏ dần với sự đan xen lẫn nhau và xóa bỏ khoảng cách. Cần xem trọng đúng mức vai trò của các tổ chức quốc tế, các tập đoàn đa quốc gia, các NGO và các loại mạng lưới kết nối, thay vì chỉ tập trung vào mô hình nhà nước thế giới hay cộng hòa thế giới. Giống như mô hình 3, cần mở rộng và cải cách triệt để Liên hiệp quốc với nhiều định chế mới mà không cần đến “chính quyền thế giới”. “Quản trị” (governance) là cai trị không cần đến chính quyền thế giới, đồng thời cũng không nhất thiết phải là cai trị mà không có “các chính quyền”. Khái niệm “governance” không chỉ khó dịch mà còn khó xác định nội dung! Nó cần phải tiếp tục nghiên cứu và làm rõ tính chất lẫn vai trò của các tác nhân dân sự vừa kể: trong chừng mực nào chúng đồng đẳng với các chính quyền được bầu lên một cách dân chủ? Cấu trúc nội tại của chúng có dân chủ và minh bạch không? Với bản chất thiện nguyện, chúng hành xử ra sao khi dính đến tiền bạc và quyền lực? Chúng có thể bị các chính quyền sử dụng và lung lạc không?...
Trước mắt, mô hình này muốn được thử thách ở quy mô trung bình trước khi lan tỏa toàn cầu: các “khối liên kết khu vực” như Cộng đồng chung châu Âu, và sắp tới đây, Cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á. Ngay ở Cộng đồng EU với nhiều thuận lợi, cơ chế dân chủ và hợp tác còn không ít quan liêu, trở ngại, tình hình sẽ ra sao đối với các “khối” ít thuần nhất hơn?
Con đường phía trước còn rất dài và gian nan, nhưng đã xác định được một điểm mới mẻ: cần có sự chuyển dịch về ngữ nghĩa trong khái niệm dân chủ. Khái niệm cổ điển về dân chủ đã thích hợp với nền dân chủ cổ đại và các nhà nước dân tộc cận và hiện đại. Thể thức tiêu biểu là bầu cử và bỏ phiếu. Bây giờ, khái niệm dân chủ cần điều chỉnh cho phù hợp với khuôn khổ của “khối” và toàn cầu. Tính cách tham dự cổ điển được dần thay thế bằng hình thức ít khắc khe hơn: tức thông qua biện pháp “kỹ trị”, hướng đến “đầu ra” (output) hơn là “đầu vào” như đang được áp dụng ở khối EU. Nổi bật là sự chuyển đổi âm thầm từ sự tham dự sang tham vấn (deliberation), từ chỗ cùng quyết định sang cùng bàn bạc (J. Habermas). Mô hình 4 chia sẻ với mô hình 3 sự lạc quan đối với “lý thuyết diễn ngôn” nói chung.
Người ta không thể nói “nửa sự thật” về hiện đại cũng như về toàn cầu hóa, nếu không muốn tô hồng, xuyên tạc hay đơn giản hóa nó. Ba đặc điểm chủ đạo của hiện đại là sự biến đổi văn hóa gia tốc, sự tiêu biến của khoảng cách không gian và sự tương đẳng của các nền văn minh đều đã và đang đi những bước quanh co.
Thêm vào đó, như Antonio Gramsci tiên đoán trước giữa thế kỷ 20 khi nhìn thấy những đám mây đen đang cuộn lên ở chân trời: “Thế giới cũ đã chết. Thế giới mới đang ló dạng. Nhưng trong cảnh tranh tối tranh sáng ấy đã xuất hiện những con quái vật”. Lời tiên đoán u ám ấy lại hiệu nghiệm? Chúng có thể đẩy lùi lịch sử? Một cách tỉnh táo, sống trong hiện đại một cách hiện đại là chấp nhận sống với và sống trong xung đột, vì không có một “hòa điệu tiền lập” nào hết.
http://www.thesaigontimes.vn/126344/Ngay-xuan-noi-chuyen-vien-tuong-cac-mo-hinh-toan-cau-hoa.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét