Chủ Nhật, 21 tháng 9, 2014

Unemployment rate - Tỷ lệ thất nghiệp

Unemployment rate
Trước đây đa số người Việt không mấy ai quan tâm hoặc biết đến số liệu thống kê thất nghiệp. Dù đây là một chỉ số quan trọng cho các nền kinh tế phát triển nhưng với một nước nông nghiệp nghèo như VN thống kê về thất nghiệp không có mấy giá trị và chưa kể độ chính xác luôn là một dấu hỏi. Tuy nhiên tôi vẫn hoan nghênh việc TCTK và Bộ LĐTBXH (với sự giúp đỡ của ILO) tiến hành thống kê và công bố các chỉ số lao động việc làm, cho dù bộ số liệu này còn cần được cải thiện. Bởi vậy tôi lấy làm tiếc khi dư luận gần đây công kích con số thất nghiệp 1.84% mà không để ý đến bức tranh lao động việc làm rộng hơn, tuy nhiên lỗi một phần do chính Bộ LĐTBXH.


Ít nhất từ năm 1997 TCTK đã tiến hành điều tra và thống kê số liệu lao động việc làm hàng năm, từ năm 2012 số liệu quí bắt đầu được TCTK công bố. Số liệu việc làm và tỷ lệ thất nghiệp được TCTK đưa vào báo cáo kinh tế xã hội mỗi tháng cuối quí trong vài năm lại đây, tuy nhiên Bộ LĐTBXH chỉ bắt đầu xuất bản ấn phẩm về các số thống kê này từ Q1 2014. Ba ấn phẩm đầu tiên được bộ này công bố trong các cuộc họp báo (không hiểu sao lại gọi là hội thảo) có rất nhiều thông tin hữu ích về thị trường lao động chứ không chỉ có số liệu thất nghiệp. Trong khi các ấn phẩm của TCTK về lao động việc làm những năm trước và hai ấn phẩm đầu của Bộ LĐTBXH hầu như không tạo sự chú ý, ấn phẩm thứ ba của bộ này bất ngờ bị báo chí và nhiều chuyên gia "soi" vì tỷ lệ thất nghiệp quá thấp, chỉ 1.84% so với trung bình 5-6% ở nhiều nước phát triển.

Công bằng mà nói con số này đúng là thấp thật và tôi đồ rằng các cán bộ thống kê đã rất miễn cưỡng phải công bố nó, họ biết sẽ phải hứng chịu búa rừu dư luận. Nếu nhiều người nghi ngờ rằng số liệu thống kê VN (vd GDP, CPI) được điều chỉnh cho đẹp lên, tôi nghĩ cơ quan thống kê có khi lại muốn thống kê thất nghệp tệ đi vì xã hội khó có thể chấp nhận một nền kinh tế đang èo uột như hiện tại mà con số này lại thấp đến vậy. Như đổ thêm dầu vào lửa, bài trả lời phỏng vấn TS Nguyễn Thị Lan Hương, Viện trưởng Khoa học Lao động và Xã hội thuộc Bộ LĐTBXH, đã bị báo chí tường thuật lại với những cái tít rất giật gân: "Việt Nam khác thế giới:Bán trà đá không coi là... thất nghiệp!" hay "Viện Khoa học Lao động: 'Thất nghiệp từ xưa đến nay chỉ có giảm'".

Dù TS Hương và một số chuyên gia đã cố gắng giải thích, dường như báo chí và dư luận xã hội vẫn "bất mãn" với con số 1.84%. Điều này nhiều khả năng sẽ làm Bộ LĐTBXH dè dặt hơn trong việc giới thiệu những ấn bản thống kê của họ trong thời gian tới. Đây sẽ là thiệt thòi cho những người làm công tác thống kê, tôi tin có rất nhiều người làm nghiêm túc, và cho cả xã hội nói chung khi một nguồn thông tin quan trọng không được đoái hoài tới. Bởi vậy trong entry này tôi sẽ cố gắng "bênh" Bộ LĐTBXH một lần nữa. Tôi không quen biết ai và có quyền lợi gì liên quan đến vấn đề này, chỉ đơn thuần muốn mọi người có cái nhìn chính xác hơn về thống kê lao động việc làm cũng như cổ vũ cho TCTK và Bộ LĐTBXH tiếp tục điều tra và công bố những chỉ số này.

Trước hết tôi tin vào khẳng định của TS Hương là định nghĩa thất nghiệp của VN tuân thủ theo thông lệ quốc tế, chính xác hơn là tuân thủ theo định nghĩa của ILO. Nếu mẫu điều tra của VN trong Q2 2014 là 50,000 hộ gia đình như TS Hương công bố thì có thể nói mẫu này khá lớn khi so với sample của Mỹ là 60,000 hộ gia đình cho một đất nước có dân số đông gấp ba lần VN. Trên thực tế theo thông tin tại website của TCTK có năm mẫu này lên đến 173,000 hộ (2007). Mặc dù chưa được chi tiết như Handbook of Methods của Mỹ, TCTK đã rất cố gắng (với sự trợ giúp của UNDP) đưa toàn bộ bản hỏi và phương pháp điều tra lên mạng. Với những thông tin nói trên tôi đánh giá cuộc điều tra này khá chất lượng, ít nhất về mặt thiết kế và tổ chức khảo sát. Tất nhiên chất lượng điều tra thực địa và xử lý số liệu có thể có vấn đề, nhưng với sự giúp đỡ của ILO và UNDP những con số thống kê được công bố có lẽ không quá xa chuẩn quốc tế.

Vậy tại sao tỷ lệ thất nghiệp của VN lại thấp như vậy? Theo tôi lý do quan trọng nhất chính là ở cái "chuẩn quốc tế" mà VN cố gắng theo đuổi. Chuẩn quốc tế ở đây là Standards and Guidelines on Labour Statistics của ILO, trong đó bao gồm một Resolution 1982 liên quan đến các định nghĩa về lao động và thất nghiệp. ILO, một tổ chức quốc tế được thành lập tại Hội nghị Hòa bình Versailles năm 1919 với mục đích chuẩn hóa các tiêu chuẩn, chính sách bảo vệ người lao động, đưa ra các tiêu chuẩn thống kê thống nhất để có thể so sánh thị trường lao động giữa các nước thành viên. Không khó có thể đoán bộ tiêu chuẩn này dựa vào tiêu chuẩn thống kê của Mỹ và các nước phát triển khác. Bởi vậy những định nghĩa quan trọng như thất nghiệp hay thu nhập bình quân (hourly rate) có đặc thù của một nền kinh tế công nghiệp với phần lớn nhân công lao động làm thuê theo hợp đồng cho các đơn vị kinh tế cố định (công ty, nhà xưởng, cửa hàng).

Áp dụng máy móc định nghĩa của ILO vào thị trường lao động VN hẳn nhiên những người bán trà đá, hàng rong, hay chạy xe ôm sẽ không bị coi là thất nghiệp. Không chỉ VN mà ở hầu hết các nước nghèo người lao động không thể không làm việc vì cơ chế bảo hiểm xã hội quá ít hoặc không tồn tại. Nói theo một chuyên gia quốc tế thất nghiệp ở các nước nghèo là một điều "xa xỉ", hầu như chỉ có những người rất giầu mới có thể cho phép mình không lao động. Do vậy có thể đoán các nước nghèo có tỷ lệ thất nghiệp rất thấp chứ không riêng gì VN. Dưới đây là tỷ lệ thất nghiệp của một số nước (nguồn WB), đồ thị này cho thấy Thailand và Cambodia có tỷ lệ thất nghiệp còn thấp hơn VN và tôi tin những người bán hàng rong hay chạy xe ôm ở những nước này cũng được tính là không thất nghiệp.



Nếu chỉ đơn thuần nhìn vào con số tuyệt đối tỷ lệ thất nghiệp 1.84% quá tốt so với thế giới, nhưng tôi tin không một lãnh đạo nào của VN dám đưa con số này ra làm bằng chứng cho "tính ưu việt" của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trên thực tế tỷ lệ thất nghiệp thấp như vậy là bằng chứng cho thấy người lao động VN phải làm bất cứ công việc gì với bất cứ mức thu nhập như thế nào để tồn tại. Nói theo lý thuyết kinh tế structural unemployment rate của VN (và các nước nghèo khác) rất thấp, có lẽ xấp xỉ bằng không. Quan sát của TS Hương về việc tỷ lệ thất nghiệp giảm liên tục rất có thể là sự sụt giảm của structural unemployment rate, cho thấy cuộc sống của người lao động ngày càng bấp bênh, không có gì đáng tự hào.

Điều này có thể thấy rõ hơn qua một thống kê khác về lao động việc làm: tỷ lệ lao động dễ tổn thương (người nội trợ, lao động tự do như bán trà đá, chạy xe ôm). Cũng giống như những nước nghèo khác tỷ lệ này của VN cao hơn hẳn, >60% ở VN và Cambodia, >50% ở Thailand,  so với các nước phát triển <10%. Đây mới là một trong những chỉ số mà báo chí, dư luận, và những người làm chính sách VN phải lưu tâm thay vì chăm chăm vào phê phán tỷ lệ thất nghiệp. ILO biết điều này và cũng khuyến nghị như vậy.



Tóm lại dù tôi còn rất nhiều bức xúc về số liệu thống kê của VN, con số thất nghiệp 1.84% không nằm trong số này. Tôi rất mong các nhà báo và các chuyên gia kinh tế tập trung hơn vào các số liệu khác trong các ấn phẩm thống kê về lao động việc làm của TCTK và Bộ LĐTBXH. Ví dụ đồ thị sau đây trong Bản tin số 3 cho thấy một sự dịch chuyển rất đáng quan tâm trong thị trường lao động VN trong Q2 2014. Thị trường xây dựng đang ấm dần lên trong khi thương mại dịch vụ và tài chính tiếp tục bế tắc?


https://nr-029.appspot.com/feedproxy.google.com/~r/Giangle/~3/ULg4LqHcOwo/unemployment-rate.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét