Thứ Hai, 28 tháng 7, 2014

Đôi điều được nghe về Triết gia Trần Đức Thảo

Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu: 
Đôi điều được nghe về Triết gia Trần Đức Thảo
Ngay sau khi Hội thảo khoa học quốc tế “Tư tưởng triết học và giáo dục của Trần Đức Thảo” được tổ chức tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào ngày 7/5/2013, Ban tổ chức Hội thảo đã nhận được rất nhiều thư cảm ơn tới lãnh đạo Nhà trường và khoa Triết học, những sự ghi nhận đánh giá về ý nghĩa của việc tổ chức Hội thảo, về chất lượng nội dung và công tác tổ chức,... Trong số đó có nhiều bài viết cảm động chia sẻ những thông tin và kết quả của Hội thảo. Chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết của Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu, nguyên Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật - Bộ Quốc phòng, người trực tiếp tham dự Hội thảo.
GS Nguyễn Đình Chú trình bày tham luận
 Được biết, Triết gia Trần Đức Thảo để lại cho đời hơn 15.000 trang viết bằng 3 thứ tiếng: Việt, Pháp, Đức. Chỉ riêng công trình Danh mục về di sản của Giáo sư Triết học Trần Đức Thảo do cố Tiến sĩ Cù Huy Chữ sưu tầm biên soạn cũng đã gần 700 trang. Có thể nói, trên đất nước ta thật hiếm có được người như ông.

 
Hội thảo khoa học Quốc tế "Tư tưởng triết học và giáo dục của Trần Đức Thảo"
 Biết tôi ham đọc sách, thích tìm hiểu nghiên cứu các chuyên để khoa học xã hội và nhân văn, GS Nguyễn Đình Chú (với tư cách tham gia tổ chức và là người đầu tiên trình bày tham luận khoa học) mời tôi đến dự Hội thảo khoa học quốc tế “Tư tưởng triết học và giáo dục của Trần Đức Thảo” được tổ chức tại Đại học Sư phạm, ngày 7/5/2013. Tôi vui vẻ nhận lời, bởi đây là một dịp hiếm được biết về Trần Đức Thảo - Triết gia duy nhất của Việt Nam trên trường quốc tế - người mà GS Nguyễn Đình Chú (vốn là học trò yêu, sau đó khi tốt nghiệp Đại học, đỗ thủ khoa, được Nhà trường giữ lại làm trợ lý của Giáo sư Trần Đức Thảo) trọn đời kính trọng. Thêm nữa, tôi có một người bạn thân là Tiến sĩ Triết học rất ngưỡng mộ về tài danh của Triết gia Trần Đức Thảo. Mấy lần bạn tôi kể vắn tắt cho tôi nghe về giai thoại tranh luận dang dở giữa Trần Đức Thảo và Jean Paul Sartre xoay quanh chủ đề Hiện tượng học của Husserl với Chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác. Mặc dù chăm chú cố tiếp thu, nhưng quả thật, trước những vấn đề học thuật lớn lao, với khả năng rất hạn chế, tôi chẳng hiểu được mấy, ngoài niềm kính trọng tự hào về Triết gia Trần Đức Thảo - một người Việt Nam xuất chúng trong giới học thuật thế giới.

 Các đại biểu tham dự Hội thảo
 Dù rất háo hức, nhưng là người ngoại đạo, trái nghề, tự thấy mình lạc lõng, tôi khó thoát khỏi tâm lý tự ti, mặc cảm khi đến dự một cuộc Hội thảo khoa học lớn. Thầy Nguyễn Đình Chú xuống tận sảnh tầng 1 đón tôi lên Hội trường K1. Bước vào Hội trường, tôi tự chọn cho mình một chỗ ngồi thật khiêm nhường, dĩ nhiên là ngồi trước các sinh viên Khoa Triết của ĐHSP. Tại  đó, tôi nhìn bao quát được toàn cảnh Hội trường, lặng lẽ theo dõi đầy đủ cuộc Hội thảo. Yên vị, quan sát một lượt, tôi thấy Hội trường thật sang trọng, được bài trí rất hoành tráng. Sự hiện diện của nhiều nhà khoa học sáng danh, nhiều Giáo sư, Tiến sỹ đầu đàn, “là cây đa, cây đề” của giới triết học nước nhà, như: GS.TSKH Phạm Minh Hạc, GS.TS Hoàng Chí Bảo, GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn, GS Hà Minh Đức, GS.TS Lê Hữu Nghĩa, …cùng nhiều cán bộ của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội càng làm cho tôi “choáng, ngợp”. Không choáng ngợp sao được. Về phương diện triết học, tôi không được đào tạo chuyên sâu, chỉ được học lõm bõm qua các bậc học. Và nhất là, tôi không có học hàm, học vị gì. Ở đâu và bao giờ cũng vậy, chuyên ngành học thuật có bao giờ dành chỗ cho hết thảy. Nói cách khác, tri thức không chia đều bình quân cho mọi người. Người duy nhất mà tôi quen từ nhiều năm trước đang ngồi ở hàng ghế đầu là GS.TS Lê Văn Quang, nguyên Chủ nhiệm Khoa Triết ở Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng, nhưng vì ngồi từ xa mà tôi xét thấy không tiện gặp.

Các đại biểu tham dự Hội thảo
            Cuộc Hội thảo được thể hiện trên 3 phần : Con người và sự nghiệp Trần Đức Thảo; Tư tưởng triết học Trần Đức Thảo; Các lĩnh vực khoa học khác trong tư tưởng Trần Đức Thảo. Có nhiều tham luận đề cập một cách phong phú, sâu sắc trên từng khía cạnh của nhiều lĩnh vực, xoay quanh chủ đề Hội thảo là “Tư tưởng triết học và giáo dục của Trần Đức Thảo”.
             Với tôi, do nhiều hạn chế vốn có, tôi chỉ nghe và đọc lại 3 tham luận mà tôi cho là hay nhất: Tham luận đầu tiên của GS Nguyễn Đình Chú với nhan đề Triết gia Trần Đức Thảo - niềm tự hào của chúng ta”Kế đến, tham luận của GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn: “ Trần Đức Thảo - một nhân cách, một nhà triết học tư duy không mệt mỏi”.  Tiếp theo, tham luận của GS Hà Minh Đức: “Nhớ thầy Trần Đức Thảo -  một triết gia thông thái, một nhân cách cao đẹp”… Qui định của Ban tổ chức là mỗi tham luận chỉ được 10 phút, nhưng cả ba vị giáo sư đều trình bày quá thời gian. Thế mà xem ra, cả người trình bày và người nghe vẫn cảm thấy thòm thèm.
Tham luận của GS Nguyễn Đình Chú nhằm phác thảo chân dung MỘT CON NGƯỜI được mệnh danh là triết gia duy nhất của Việt Nam, một người Việt Nam có thanh danh lớn nhất trên trường quốc tế về học thuật: Trần Đức Thảo. Tập trung thể hiên trên 5 phần: Trần Đức Thảo: người con xuất chúng của Bắc Ninh-Kinh Bắc, “cái nôi của người Việt của văn hóa Việt”. Trần Đức Thảo: một người Việt nam trọn đời yêu nước với nhiều biểu hiện, đặc biệt là từ giã Pari hoa lệ để về nước tham gia kháng chiến giữa những ngày gian khổ, ác liệt. Trần Đức Thảo: một lưu học sinh làm vẻ vang cho Tổ quốc Việt Nam trên đất Pháp với tấm bằng thủ khoa thạc sĩ triết học mà đến nay chưa có người thứ hai. Trần Đức Thảo: vị triết gia duy nhất của Việt Nam trên trường quốc tế với những hành động, những tác phẩm nổi trội, có ý nghĩa phát triển chủ nghĩa Mác theo hướng “duy vật biện chứng nhân bản”. Trần Đức Thảo: người sáng lập bộ môn lịch sử triết học dưới chính thể Việt nam dân chủ cộng hòa tại Đại học Sư phạm Văn khoa (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội).
Tại Đại học Sư phạm, khóa học 1954 - 1957, thế hệ sinh viên hồi đó thật may mắn được thụ giáo bởi những những nhà khoa học, những bậc danh sư - như một giàn sao sáng trên trời, một đi không trở lại - như: Đặng Thai Mai, Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Khánh Toàn, Phạm Huy Thông, Trần Văn Giàu, Nguyễn Lân, Nguyễn Lương Ngọc, Hoàng Xuân Nhị,…Các sinh viên thời đó mà phần đông sau này đều thành danh trong sự nghiệp, nhiều người trở thành những GS.TS tiêu biểu.
 GS Nguyễn Đình Chú, người có thâm niên 55 năm trên bục giảng Đại học Sư phạm, bồi hồi xúc động đến nghẹn ngào kể lại những kỉ niệm của mình khi được học rồi tiếp đó là trợ lý của thầy mình - Triết gia Trần Đức Thảo. Ông kể rằng, hồi đó tại Đại giảng đường 35 Lê Thánh Tông từ phòng chính cho đến chuồng gà hầu như hôm nào có giờ giảng của Giáo sư Trần Đức Thảo thì đều chật ních và tĩnh lặng. Có hiện tượng lạ như thế là vì tiếng đồn về Giáo sư quá lớn. Nào là đậu Thạc sĩ triết học của Escole Normale ở phố Ulm - trường danh tiếng nhất của nước Pháp- thắng Jean Paul Sartre trong cuộc tranh luận, bỏ Pari hoa lệ về nước tham gia kháng chiến.
Giáo dục.
 Giáo sư Nguyễn Đình Chú, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội mở đầu báo cáo tham luận:Triết gia Trần Đức Thảo - niềm tự hào lớn của chúng ta (Philosopher Tran Duc Thao - our great pride). Giáp sư Nguyễn Đình Chú là học trò của Giáo sư Trần Đức Thảo khi học khóa I Đại học Sư phạm Văn Khoa niên khóa 1954 -1957. 
Theo hồi tưởng của GS Nguyễn Đình Chú, thì Triết gia Trần Đức Thảo trên tư cách là một nhà giáo, thì quả là một hiện tượng kỳ lạ chưa từng thấy trong ngành sư phạm. Thầy Trần Đức Thảo có cá tính độc đáo, chỉ coi trọng chiều sâu học thuật, không câu nệ bề ngoại - thậm chí bất chấp mọi khuôn mẫu, chuẩn mực mô phạm thường thấy xưa nay của người thầy giáo trên bục giảng. Bởi thế, các đồng nghiệp, học trò vô cùng yêu mến, kính trọng thầy nhận xét vui rằng: Thầy Thảo có bề ngoài như là phi sư phạm nhưng thực chất lại là “đại siêu sư phạm”. Thầy Thảo thường đến lớp trong tay không một mẩu giáo án, không ngồi ở ghế mà ngồi ghé mép bàn, không hề nhìn sinh viên, chỉ nhìn ngược lên trần nhà giảng đường, mà tiếng nói thì lúng búng, thỉnh thoảng tự mỉm cười. Thế mà cô cậu sinh viên nào cũng tỏ ra mình hiểu. Nếu không thì tự nhận là mình dốt sao?  GS Nguyễn Đình Chú cho rằng, sở dĩ, ông có được những kết quả trong đời thì trước hết nhờ có sư phụ Trần Đức Thảo. Bởi chính Thầy Trần Đức Thảo đã gieo vào mình một ám ảnhsuốt đới phải đeo đẳng và phấn đấu là sự thèm khát suy nghĩ, thèm khát một năng lực tư duy trừu tượng khoa học, dù ít dù nhiều, cái mà thầy đã có. Mặc dù trong đời sống có nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng nghiên cứu khoa học thì bao giờ cũng rất, rất cần đến năng lực tư duy đó. Nói “đại siêu sư phạm” là thế. Không chỉ phát sáng cho học trò mà cao hơn nữa là làm sao gieo được vào học trò một nỗi ám ảnh suốt đời để học trò theo mình mà tự phát sáng dù ở lĩnh vực nào.
Kết luận bài viết, sau khi nói lên vị thế của Triết gia Trần Đức Thảo, GS Nguyễn Đình Chú nhấn mạnh: một đất nước muốn trở thành một đất nước hùng cường, sánh vai với năm châu thế giới không thể không có triết học.
 GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn trong bài tham luận của mình: “Trần Đức Thảo, một nhà triêt học tư duy không mệt mỏi” đã tập trung khắc họa chân dung và nhân cách của nhà triết học Trần Đức Thảo với khả năng tư duy không mệt mỏi vì sự nghiệp khoa học. Ông là một nhà khoa học, một trí thức biết dấn thân, biết vượt qua khó khăn, những sự thù nghịch để trọn đời theo đuổi chân lý, đến với chủ nghĩa Mác - con đường đúng đắn để giải quyết vấn đề cơ bản về phần lý luận khoa học để đấu tranh đòi tự do cho dân tộc. Sự nghiệp và nhân cách của ông rất đáng được kính trọng, rất đáng được tôn vinh và thật sự đã được tôn vinh dù có hơi muộn màng.

Giáo sư Nguyễn Trọng Chuẩn, nguyên Viện trưởng Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trình bày báo cáo: Trần Đức Thảo - một nhân cách, một nhà triết học tư duy không mệt mỏi (Tran Duc Thao: a great personality, a philosopher thought tierless).
Trước những năm 80 của thế kỷ XX, Trần Đức Thảo (1917- 1993) được giới triết học phương Tây biết đến nhiều hơn những người nghiên cứu và giảng dạy triết học ở Việt Nam đọc ông, biết đến các công trình của ông và hiểu ông.
Theo GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn, khi ông đang làm nghiên cứu sinh triết học tại Liên Xô (cũ), trong một buổi báo cáo khoa học, một phụ nữ không quen biết đến ngồi cạnh và hỏi, ông có phải là người Việt Nam không. Ông trả lời, vâng, đúng thế! Bà ta hỏi tiếp, ông có quen nhà triết học Trần Đức Thảo không. Ông Chuẩn trả lời rằng, tôi có biết nhưng chưa bao giờ được gặp ông ấy. Bà ta tỏ vẻ ngạc nhiên và nói ngay rằng, tôi rất thích cuốn “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng” của Trần Đức Thảo bằng tiếng Pháp”. Hóa ra là, Trần Đức Thảo không chỉ được giới triết học phương Tây mà cả giới triết học Liên Xô lúc bấy giờ cũng đã biết đến ông từ trước đó.
Tiếc rằng, ở trong nước có không ít người nghe đến tên ông Trần Đức Thảo nhưng lại chỉ biết về ông như là người có liên quan đến vụ “Nhóm nhân văn”. Việc ông không được nhiều người biết đến là do các công trình của ông dù được viết tại Việt Nam hay được viết tại Pháp, rồi được dịch ra nhiều thứ tiếng khác và được xuất bản ở các nước như Hunggari, Anh, Mỹ, Tây Ban Nha, Nhật Bản,…Ngoài ra, cũng có thể, suốt một thời gian dài ở nước ta những công trình nghiên cứu mang tính khoa học đều bị coi là thứ xa xỉ, là xa lạ rời thực tế. Người ta chỉ chăm chăm vào những cái gì mang tính minh họa hoặc thuyết minh. Hơn nữa, trong nhiều năm, việc công bố hoặc truyền bá những gì dính dáng tới những người có liên quan đến vụ  “nhân văn” là điều tối kỵ và thậm chí không được phép. Những nguyên nhân cốt tử đó đã không thể đưa các tác phẩm của Giáo sư Trần Đức Thảo đến với công chúng rộng rãi cũng như những người giảng dạy triết học nhưng không thông thạo tiếng Pháp, không trực tiếp sử dụng được Pháp ngữ.
Suốt trong nhiều năm, từ cuối nhứng năm 50 cho đến cuối đời, nhà trí thức lớn Trần Đức Thảo dù bị o ép và sống trong cảnh túng thiếu, không có chỗ để sách, không có nơi làm việc, nhưng ông vẫn không ngừng công việc nghiên cứu của mình. Đặc biệt, từ đầu năm 1988, sau khi chuyển vào thành phố Hồ chí Minh, cuộc sống của ông càng khó khăn hơn. Trong mọi khó khăn, Trần Đức Thảo không đánh mất mình. Suốt những năm sau khi về nước, ông kiên trì theo đuổi các công trình nghiên cứu và nhờ đó các bài báo, các công trình được đăng cả ở trong nước lẫn ở nước ngoài.
Sự nghiệp và cuộc đời của Trần Đức Thảo là sự nghiệp của một nhà khoa học biết dấn thân, biết vượt qua những khó khăn, những sự thù nghịch để trọn đời theo đuổi chân lí.
“Nhớ thầy Trần Đức Thảo, một triết gia thông thái, một nhân cách đẹp” là tham luận của GS Hà Minh Đức. Bài viết hồi tưởng lại những ấn tượng sâu sắc của một học trò đã trực tiếp được Giáo sư Trần Đức Thảo giảng dạy các bài giảng Lịch sử tư tưởng triết học. Cuộc đời Giáo sư Trần Đức Thảo dù gặp phải những vất vả, nhưng thầy không hề oán giận, trách móc. Thầy vẫn lặng lẽ sống, chịu đựng, quan tâm đến nghiên cứu khoa học, nhận những công việc được giao phó và hoàn thành có trách nhiệm. Với tư cách là một nhân chứng lịch sử, GS Hà Minh Đức khẳng định tầm vóc trí tuệ và nhân cách trong sáng của thầy mình - Giáo sư Trần Đức Thảo.
 Giáo sư Hà Minh Đức, nguyên Viện trưởng Viện Văn học - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tham luận báo cáo chủ đề: Nhớ Thầy Trần Đức Thảo - một triết gia thông thái, một nhân cách cao đẹp (Remember Professor Tran Duc Thao - A erudite philosopher, a great personality). Giáo sư Hà Minh Đức cũng là học trò của Giáo sư Trần Đức Thảo khi học khóa I Đại học Sư phạm Văn Khoa niên khóa 1954 -1957.
GS Hà Minh Đức kể rằng, hồi đó, thầy Thảo dạy về triết học duy tâm chủ yếu là phương Tây. Giáo trình dài nhưng phần nhập tâm nhiều hơn đối với sinh viên là triết học trước Mác với các tác giả nổi tiếng như Căng, Phơbach, Hêghen…Là một nhà duy tâm nổi tiếng, Trần Đức Thảo bắt đầu từ đâu với triết học duy vật biện chứng. Nghe nói, hồi đó có một vị lãnh đạo nói với GS rằng, anh không thể bước từ đỉnh của triết học duy tâm sang đỉnh của triết học duy vật, mà phải đi xuống đã, rồi từ dưới leo lên đỉnh cao của triết học duy vật.
Mỗi khi thầy vào lớp, mọi người đứng dậy chào, thầy khẽ gật đầu và bắt ngay vào giảng, tay cầm micro nói một hơi cho tới giờ nghỉ. Thầy lên văn phòng một lúc rồi quay về lớp giảng tiếp một hơi cho đến kết thúc. Không nói hùng hồn, hùng biện như các thầy Trần Văn Giàu và Trương Tửu mà giọng nói đều đều không vội vàng, không vấp váp như nước trong nguồn chảy ra. Phải có một tư duy hệ thống có logic chặt chẽ trong cấu tạo ý tưởng mới có thể chuyển tải bài giảng dài không hề lệ thuộc vào sách vở. Có lúc một tay thầy cầm micro, một tay đút túi quần, mắt như nhìn sinh viên mà không nhìn vào ai cụ thể. Lớp  cử ra hai người là Nguyễn Đình Chú và Phạm Hoàng Gia, hai sinh viên thông minh, giỏi và chữ đẹp, viết nhanh để ghi lại lời thầy. Không có ghi âm hoặc yếu tố nào hỗ trợ, hai sinh viên Nguyễn Đình Chú và Phạm Hoàng Gia được dành 2 ghế ở hàng đầu có đánh dấu phấn để tiện công việc. Về xem lại phần ghi chép và gửi đến thầy, thầy chỉnh lí và cho in. Giờ học sau, cả lớp đã có bài giảng chu đáo, kịp thời. Có người nói vui, thầy nào cũng như thầy Thảo thì việc viết sách giáo khoa rất thuận tiện, mà chẳng tốn kém như bây giờ. Giáo trình Lịch sử tư tưởng triết học đã ra đời như thế. Nhưng điều đáng quí là, đã tạo cho sinh viên làm quen với tư duy trừu tượng. Một nhược điểm không dễ khắc phục với lối nghĩ cảm tính và cảm nhận cụ thể. Quá trình khái quát hóa và trừu tượng hóa rất cần cho học tập và nghiên cứu khoa học của mọi người. Người ta thường nhắc đến khả năng trừu tượng hóa siêu việt của Hêghen và sau này một số triết gia phương Tây tiếp nối được. 
Theo GS Hà Minh Đức, từ Việt Bắc về Hà Nội, Giáo sư Trần Đức Thảo vẫn giữ được vốn quí triết học, nhưng về chính trị thầy chưa trải nghiệm qua nhiều thử thách. Đúng lúc phong trào Nhân văn giai phẩm xuất hiện, Giáo sư Trần Đức Thảo đã viết bài: Nỗ lực phát triển tự do dân chủ (đăng Nhân văn số 32, 15-10-1956). Trong đó tác giả đề cao, nhấn mạnh đến yêu cầu tự do phát triển cá nhân; phê phán những tư tưởng làm hạn chế sự phát triển của xã hội như : quan liêu, bè phái, giáo điều, sùng bái cá nhân. Kết quả là, Giáo sư Trần Đức Thảo bị ngừng giảng dạy, một số cuộc họp trong Trường ĐHSP phê phán Giáo sư Trương Tửu và Giáo sư Trần Đức Thảo khá nặng nề. Sau nhiều năm chịu đựng nhiều vất vả, nhưng Giáo sư Trần Đức Thảo không hề oán hận, trách móc, thầy vẫn lặng lẽ sống và quan tâm đến nghiên cứu khoa học.
Tháng 9-2000, Giáo sư Trần Đức Thảo được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh - đây là sự giải tỏa, điều minh oan cho Thầy.
                                             *
                                  *  *
           Giải thưởng Hồ Chí Minh mà Nhà nước truy tặng Giáo sư Trần Đức Thảo là căn cứ trên hai công trình khoa học tiêu biểu nhất của ông : “Hiện tượng luận và chủ nhĩa duy vật biện chứng” , “Tìm hiểu nguồn gốc ngôn ngữ và ý thức”.
           Được biết, Triết gia Trần Đức Thảo để lại cho đời hơn 15.000 trang viết bằng 3 thứ tiếng: Việt, Pháp, Đức. Chỉ riêng công trình Danh mục về di sản của Giáo sư Triết học Trần Đức Thảo do cố Tiến sĩ Cù Huy Chữ sưu tầm biên soạn cũng đã gần 700 trang. Có thể nói, trên đất nước ta thật hiếm có được người như ông.
           Sự nghiệp và thanh danh của Triết gia Trần Đức Thảo to lớn như thế, nhưng nội dung triết học cụ thể của ông là gì, thì đối với số đông học giới Việt Nam ta, xem ra lại là điều không dễ dàng. Theo GS Nguyễn Đình Chú, một người muốn hiểu được một cách tương đối thấu đáo về tư tưởng triết học của Triết gia Trần Đức Thảo, thì phải phải hội đủ 4 điều kiện cần thiết là: Về ngoại ngữ, phải thành thạo tiếng Pháp và tiếng Đức. Phải có trình độ nhất định về triết học thế giới - đặc biệt là triết học phương Tây. Phải có hiểu biết tới mức cần thiết của khoa học tự nhiên (cứ nhìn những sách tham khảo một cách uyên bác mênh mông của Triết gia sẽ thấy phải như thế). Quan trọng hơn nữa là, phải có năng lực tư duy trừu tượng khoa học như thế nào đó thì mới thâm nhập được vào tác phẩm của Triết gia, trong khi đất nước mình vốn có thế mạnh về tư duy cụ thể mà nghèo về tư duy trừu tượng.
            Về tài năng to lớn của Giáo sư Trần Đức Thảo, có thể khái quát gọn trong một câu khẳng định của Giáo sư Trần Văn Giàu: “Mình không có truyền thống triết học. Nếu có thể nói, có một nhà triết học thì người đó không phải là Trần Văn Giàu - Trần Văn Giàu là một giáo sư triết học hay nhà nghiên cứu triết học. Người đó chính là Trần Đức Thảo”./.                                                                                                                           Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu, Nguyên Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật - Bộ Quốc phòng, Publish: 23/05/2013 Views: 2828
Tin cùng chuyên mục

1 nhận xét:

  1. Đến hàng chục bộ óc siêu việt của các nhà triết học Viện Hàn lâm CHDC Đức còn không cứu nổi sự sụp đổ của nhà nước XHCN Mác-Ăngen ( Đông Đức ) cùng với lí thuyết đấu tranh giai cấp. Chắc chắn ông Thảo chưa được đọc phần sám hối cuối đời của Mác và không được đến CHLB Đức để nghiên cứu triết học Mác đã CHẾT trong xã hội Đức như thế nào .

    Trả lờiXóa