Thứ Sáu, 11 tháng 4, 2014

Kinh tế vĩ mô: Những điểm sáng 2013 và định hướng 2014

Bài viết cũ của tôi, viết ngày 2.1.2014, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Số 2 (429), tháng 2-2014
Kinh tế vĩ mô: Những điểm sáng 2013 và định hướng 2014
(KINH TẾ 2014: KIÊN TRÌ ỔN ĐỊNH VĨ MÔ VÀ PHÁT TRIỂN HÀI HÒA, TẠO NỀN TẢNG CHO BƯỚC PHÁT TRIỂN NHANH HƠN TRONG NHỮNG NĂM TIẾP THEO)
       Trong khoảng chục năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã trải qua nhiều bước thăng trầm ảnh hưởng bất lợi tới quá trình phát triển dài hạn và ổn định xã hội. Nhiều khó khăn, thách thức phát sinh như hoạt động kinh tế trì trệ, tỷ lệ lạm phát cao, tỷ lệ đầu tư trên GDP giảm mạnh, nhập siêu lớn, cân đối ngân sách căng thẳng, nợ xấu tăng nhanh. Thậm chí đầu năm 2013, một số chuyên gia đã dự báo nền kinh tế sẽ sớm rơi vào khủng hoảng, sẽ phải đề nghị cứu trợ của các tổ chức tài chính quốc tế... 
Tuy nhiên, đáng mừng là trong năm 2013, mặc dù tình hình kinh tế thế giới còn nhiều bất ổn và biến động phức tạp, nhưng nền kinh tế nước ta đã đứng vững; các cân đối vĩ mô đã bước đầu chuyển dịch về các tọa độ cân bằng trung hạn, bền vững, hiệu quả. Không những vậy, trong một số lĩnh vực còn đạt được nhiều kết quả khá khả quan. Đặc biệt, nhìn toàn cục, có thể thấy nền kinh tế đến cuối năm 2013 đã đạt tới điểm cân bằng, nếu tiếp tục củng cố vững chắc những cân bằng vĩ mô này thì hoàn toàn có thể trở lại thời kỳ tăng trưởng cao trong những năm tới.
1) Tăng trưởng kinh tế bắt đầu ổn định, bước đầu phục hồi; cơ cấu chuyển dịch tích cực
Có thể thấy rõ bước thăng trầm của nền kinh tế thể hiện ngay từ tăng trưởng GDP. Nếu như tốc độ tăng trưởng GDP trong suốt giai đoạn 2000-2007 liên tục tăng lên, bình quân 5 năm 2001-2005 là 7,5%/năm, năm 2006 là 8,2%, năm 2007 là 8,5%, thì tốc độ này giảm mạnh và liên tục trong hai năm tiếp theo (2008-2009), rồi lại tăng mạnh trở lại tới 6,8% năm 2010. Nhưng ngay sau đó lại liên tục giảm nhanh hơn, chỉ còn 5,25% năm 2012, thấp nhất kể từ năm 1999 đến nay. Năm 2013, một lần nữa tốc độ tăng trưởng kinh tế lại quay đầu đi lên.
Đồ thị 1: Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2000-2013 (%)
Như vậy, nếu như quá trình tăng trưởng của nền kinh tế nước ta từ năm 2007 về trước có xu thế ổn định mang tính cơ cấu thì từ năm 2008 đến nay đã có độ dao động lớn, rất khó dự báo cho thời gian tới. Tuy nhiên, mặc dù giảm xuống thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta vẫn thuộc vào loại khá cao so với khu vực và thế giới.
Bước thăng trầm không chỉ diễn ra trong toàn nền kinh tế mà còn diễn ra ở tất cả các khu vực. Riêng trong năm 2013, tốc độ tăng trưởng công nghiệp và xây dựng tiếp tục giảm sút, trong khi tăng trưởng của khu vực nông nghiệp vẫn ổn định. Phục hồi kinh tế bước đầu chính nhờ khu vực dịch vụ đã có bước bứt phá về tốc độ tăng trưởng; đây là một điểm sáng báo hiệu cầu của nền kinh tế bắt đầu được cải thiện; nhân tố này cùng với sự ổn định của khu vực nông nghiệp sẽ kéo theo sự phục hồi của công nghiệp và toàn nền kinh tế trong năm 2014.
Đồ thị 2: Tốc độ tăng trưởng của các khu vực giai đoạn 2000-2013 (%)
      Do vậy, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tiến bộ: Tăng tỷ trọng khu vực dịch vụ đồng thời giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tiếp tục thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động và phân bố lại dân cư. Tuy nhiên, những số liệu dưới đây cho thấy tốc độ chuyển dịch kinh tế và cơ cấu lao động còn tương đối chậm. Đến hết năm 2013, vẫn còn xấp xỉ 47% lực lượng lao động đang làm việc trong khu vực nông nghiệp.
Bảng 1: Tỷ trọng các khu vực trong nền kinh tế (%)

Cơ cấu GDP (%)
Cơ cấu lao động (%)
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
2000
24,53
36,73
38,73
65,1
13,1
21,8
2001
23,24
38,13
38,63
63,4
14,3
22,3
2002
23,03
38,49
38,48
61,9
15,4
22,7
2003
22,54
39,47
37,99
60,3
16,5
23,3
2004
21,81
40,21
37,98
58,8
17,3
23,9
2005
20,97
41,53
37,50
57,3
18,2
24,6
2006
20,41
42,04
37,55
55,09
17,59
27,32
2007
20,34
41,98
37,68
52,94
18,95
28,12
2008
22,21
40,35
37,44
52,31
19,34
28,35
2009
20,91
40,79
38,30
51,54
20,03
28,44
2010
20,58
41,64
37,78
49,50
20,95
29,55
2011
20,10
40,79
39,11
48,39
21,29
30,33
2012
19,67
38,63
41,70
47,37
21,19
31,44
2013
18,39
38,30
43,31
46,90
21,10
32,00
Các phân tích chi tiết hơn cho thấy trong năm 2013, để đối phó với những khó khăn thách thức phát sinh từ nhiều năm trước và những đòi hỏi khắt khe của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng và toàn diện, từng ngành kinh tế đều có những chuyển dịch cơ cấu theo hướng loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, giá thành sản phẩm cao, không đáp ứng được nhu cầu thị trường, đồng thời chú trọng nâng cao hiệu quả kinh tế và hiệu quả đầu tư. Đặc biệt, trong khu vực dịch vụ, nhiều lĩnh vực có tiềm năng và ưu thế đã khôi phục được mức tăng trưởng khá như du lịch, lưu trú và ăn uống (9,9%); tài chính, ngân hàng và bảo hiểm (6,9%). Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng khoảng 5,6% (đã trừ yếu tố tăng giá), cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Như vậy, trong năm 2013 nền kinh tế đã có những cải thiện bước đầu về tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhiều nhân tố đã đóng góp vào kết quả này, trong đó có các nhân tố cung (đầu tư, lao động) và các nhân tố cầu (đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu).
2) Tỷ lệ đầu tư trở về mức hợp lý; hiệu quả được cải thiện
Đầu tư vừa là nhân tố cung, vừa là nhân tố cầu, và cũng là nhân tố chính tạo ra tốc độ tăng trưởng khá cao của nền kinh tế nước ta trong nhiều năm qua nhờ tỷ lệ đầu tư trên GDP đã tăng lên rất nhanh và liên tục đứng ở mức rất cao. Việc phát triển kinh tế thị trường và đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa đã tạo ra nhiều cơ hội đầu tư mới, khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước bỏ vốn ra làm giàu, đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy một khi vốn đầu tư đã trở nên quá dồi dào thì hiệu quả sử dụng vốn sẽ giảm xuống, tất yếu dẫn tới việc điều chỉnh lại chiến lược đầu tư.
Đồ thị 3: Tỷ lệ đầu tư trên GDP và tốc độ tăng trưởng GDP (%)
Xu hướng giảm tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội trên GDP đã kéo dài liên tục và rất nhanh từ năm 2009 đến nay; từ mức 43,1% năm 2008 xuống chỉ còn 30,4% năm 2013, thấp nhất kể từ năm 2000. Tuy nhiên, tỷ lệ năm 2013 được xem là phù hợp với một nền kinh tế đang phát triển ở trình độ trung bình thấp như nước ta; nếu giữ ổn định được tỷ lệ đầu tư này dài hạn đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì chắc chắn tốc độ tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng kinh tế sẽ cao hơn đáng kể.
Về cơ cấu cũng có những thay đổi tương đối tích cực, trong đó vai trò của vốn đầu tư nước ngoài tăng lên khá nhanh. Năm 2013, trong khi vốn đầu tư của khu vực nhà nước tăng 8,4% so với năm 2012, của khu vực ngoài nhà nước tăng 6,6% thì khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng tới 9,9%. Do vậy, vốn đầu tư của khu vực nhà nước hiện đang chiếm 40,4% tổng đầu tư toàn xã hội, của khu vực ngoài nhà nước chiếm 37,6% trong khi khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên 22%. Riêng trong khu vực kinh tế nhà nước, tốc độ chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn đầu tư cũng diễn ra khá nhanh theo hướng hiệu quả hơn, tức là giảm tỷ trọng vốn tín dụng nhà nước và vốn của các doanh nghiệp nhà nước; đồng thời tăng tỷ trọng nguồn vốn ngân sách để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
Điểm sáng nổi bật về đầu tư năm 2013 là thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; đến 15/12/2013 vốn đăng ký ước đạt 21,6 tỷ USD, tăng 54,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cấp phép mới tăng 70,5%. Đặc biệt, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2013 tập trung chủ yếu vào ngành trọng điểm để phát triển, như công nghiệp chế biến, chế tạo (16,6 tỷ USD, chiếm 76,9% tổng vốn đăng ký); sản xuất, phân phối điện, khí đốt (2 tỷ USD, chiếm 9,4%). Hơn nữa, những quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp phép mới vào Việt Nam nhìn chung đều có trình độ công nghệ khá, đứng đầu là Hàn Quốc (3,75 tỷ USD, chiếm 26,3%), Singapore (3 tỷ USD, chiếm 21,1%), Nhật Bản (1,3 tỷ USD, chiếm 9,1%).
Về sử dụng, các nguồn đầu tư xã hội đã được tập trung hơn cho những mục tiêu tái cơ cấu lại nền kinh tế và nâng cao hiệu quả sản xuất. Nguồn vốn ngân sách nhà nước được quản lý chặt chẽ hơn nhờ triển khai thực hiện Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ; đã kiên quyết tập trung vốn ngân sách cho xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là các công trình kết cấu hạ tầng quy mô lớn, cho nông nghiệp và nông thôn, xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa học và công nghệ... Nợ đọng xây dựng cơ bản từ hơn 100.000 tỷ đồng năm 2011 đã giảm xuống còn 40.000 tỷ đồng năm 2013.
Đồ thị 4: Tiến triển của hệ số ICOR
Bước đầu xiết chặt đầu tư nên hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong năm 2013 đã được cải thiện rõ rệt. Hệ số ICOR đã giảm mạnh từ 8,05 năm 2009 xuống 6,38 năm 2012 và 5,61 năm 2013; so với các nước trong khu vực thì không còn quá cao, song so với trình độ phát triển hiện nay của nền kinh tế nước ta thì cần phải hạ xuống nhiều nữa.
Bên cạnh những thành tựu nêu trên, trong lĩnh vực đầu tư, đang nổi lên một số khó khăn cần khẩn trương tháo gỡ trong năm 2014. Cơ chế và chính sách thu hút các nguồn vốn đầu tư chưa có bước tiến đột phá; môi trường đầu tư chậm được cải thiện và nhiều rủi ro; phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế vẫn lớn, chưa đủ hấp dẫn đối với thành phần kinh tế ngoài nhà nước nên tỷ trọng đầu tư ngoài nhà nước giảm mạnh. Các khu vực trọng điểm, có lợi thế hoặc còn nhiều tiềm năng chưa được quan tâm đầu tư thích đáng nên hiệu quả đem lại thấp. Cải cách hành chính liên quan đến đầu tư tuy đã có đổi mới ở một số khâu, nhưng nhìn chung vẫn chậm trễ, làm lỡ cơ hội đầu tư... Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng nhà nước chưa thật sự phát huy vai trò là vốn mồi để thu hút các nguồn vốn khác nhằm hình thành cơ cấu đầu tư hợp lý, có hiệu quả, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hơn. Bố trí vốn nhà nước vẫn dàn trải. Việc thực hiện các quy định về quản lý đầu tư và xây dựng chưa nghiêm...
3) Năng suất lao động giữ vai trò chủ lực trong quá trình phục hồi tăng trưởng năm 2013
Lý thuyết và kinh nghiệm thực tế tại các nước đang phát triển đều khẳng định vai trò to lớn của nguồn nhân lực trong quá trình tăng trưởng và công nghiệp hoá. Trong giai đoạn đầu phát triển, khi nguồn vốn còn khan hiếm, nguồn nhân lực thường đóng vai trò rất quan trọng, như là một nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng chủ yếu của nền kinh tế. Trong giai đoạn công nghiệp hoá, vai trò của vốn đầu tư tăng lên nhưng không vì thế mà vị trí của nguồn nhân lực bị xem nhẹ; lúc này chất lượng nguồn nhân lực lại trở thành nhân tố cơ bản tạo ra công nghệ và kỹ thuật mới làm tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Đặc biệt, khi khoa học và công nghệ đã thực sự trở thành động lực chủ yếu của quá trình tăng trưởng thì vai trò nhân tố tăng trưởng theo chiều sâu của nguồn nhân lực sẽ cực kỳ quan trọng.
Ở nước ta, tình hình cũng không phải là ngoại lệ. Trong những năm 2008-2010, khi tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP rất cao (đều trên 42%), vốn đã phần nào thay thế lao động, làm cho tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc đứng ở mức cao (năm 2009 hai tỷ lệ này lần lượt là 5,61% và 2,9%). Tuy nhiên từ năm 2011 đến nay, với việc tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP giảm rất mạnh, đồng thời các ngành sử dụng ít lao động (công nghiệp và xây dựng) cũng tăng trưởng chậm lại, trong khi các ngành sử dụng nhiều lao động (nông nghiệp và dịch vụ) tăng trưởng nhanh hơn, làm cho nhu cầu lao động tăng, dẫn tới tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm giảm. Năm 2013, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi xuống còn 2,22% trong khi tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi giảm còn 2,77%.
Đồ thị 5: Thay đổi tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm 2008-2013 (%)

Bảng 2: Đóng góp của lao động và năng suất lao động tới tăng trưởng GDP (%)

2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
GDP, giá 2010, nghìn tỷ đồng
1669,5
1810,8
1925,0
2027,5
2164,9
2292,4
2412,8
2543,6
Lao động, nghìn người
43980
45208
46461
47744
49049
50352
51699
52402
NSLĐ (GDP/Lao động, triệu đồng, giá 2010)
37,96
40,05
41,43
42,47
44,14
45,53
46,67
48,54
Tốc độ tăng trư­ởng GDP (%)
8,23
8,46
6,31
5,32
6,78
5,89
5,25
5,42
Tốc độ tăng trư­ởng lao động đang làm việc trong nền kinh tế (%)
2,82
2,79
2,77
2,76
2,73
2,66
2,68
1,36
Tốc độ tăng NSLĐ (%)
5,26
5,51
3,44
2,49
3,94
3,15
2,51
4,01
Sai số








Đóng góp vào tốc độ tăng trưởng GDP (%):
100
100
100
100
100
100
100
100
- Lao động
34,24
33,00
43,92
51,90
40,31
45,12
50,96
25,09
- NSLĐ
63,96
65,18
54,57
46,81
58,10
53,46
47,77
73,90
- Sai số tính toán
1,80
1,82
1,51
1,29
1,59
1,42
1,28
1,01
Số liệu trong bảng trên cho thấy nguồn nhân lực và năng suất lao động đã và đang đóng vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế nước ta, trong đó đóng góp của năng suất lao động (nhân tố tăng trưởng theo chiều sâu) thường cao hơn rất nhiều so với đóng góp của số lượng lao động (nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng). Một mặt, tốc độ tăng trưởng năng suất lao động thường xuyên cao hơn tốc độ tăng của lực lượng lao động sử dụng. Mặt khác, mặc dù tỷ lệ đóng góp của năng suất lao động vào tốc độ tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2006-2012 có xu hướng giảm khá nhanh, nhưng riêng năm 2013 đã tăng rất mạnh trở lại, lên tới 73,9% tức là xấp xỉ gấp 3 lần mức đóng góp của nhân tố số lượng lao động. Điều này chứng tỏ trong năm 2013 đã có phục hồi về chất lượng tăng trưởng, đồng thời năng suất trở lại là nhân tố quan trọng nhất quyết định quá trình tăng trưởng mặc dù chưa thực sự mạnh mẽ và ổn định như trường hợp các nước khác trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4) Tiêu dùng đang trở thành nhân tố cơ bản thúc đẩy tăng trưởng
Mặc dù theo đà công nghiệp hóa, tỷ trọng tích luỹ trong tổng cầu (tổng cầu gồm tiêu dùng cuối cùng, tích luỹ tài sản và xuất khẩu) có xu hướng tăng lên nhưng tiêu dùng vẫn luôn luôn là thành phần quan trọng nhất trong tổng cầu vì nó chiếm tỷ trọng cao nhất; đến nay vẫn hơn 70% GDP trong khi tích lũy chỉ chiếm khoảng 28%.
Nhìn lại những năm đầu thế kỷ 21 đến nay, có thể thấy quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng tiêu dùng có những biến động khá lớn. Có những giai đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh hơn tăng trưởng tiêu dùng dẫn tới cung vượt cầu (2000-2001) và đã phải thực hiện chính sách kích cầu (2002-2003). Kích cầu kéo dài lại dẫn tới cầu vượt cung, gây ra lạm phát cao (2004), buộc lại phải áp dụng chính sách hạn chế cầu (2005). Cứ thế chính sách mở rộng - thắt chặt cầu liên tiếp được áp dụng luân phiên với quy mô ngày càng lớn từ năm 2006 đến 2012, làm cho tỷ lệ tăng trưởng kinh tế và lạm phát đều biến động khá mạnh. Điểm đặc biệt trong suốt thời kỳ này là các chính sách kích cung hầu như không phát huy tác dụng; trong khi chính sách kích cầu có tác dụng nhưng lại gây khủng hoảng lạm phát và làm tăng chênh lệch giầu nghèo, phát sinh nhiều bức xúc xã hội.
Tuy nhiên chính sách năm 2013 dường như đã có bước thay đổi ngoạn mục. Nếu như năm 2012 chính sách thắt chặt cầu đã được áp dụng rất mạnh nhưng nguy cơ ổn định kinh tế vĩ mô vẫn rất lớn và nhiều chuyên gia dự báo sẽ tiếp tục có những thắt chặt tiêu dùng hơn nữa trong năm 2013 thì thực tế đã không phải như vậy. Một chính sách hài hòa tăng trưởng cung – cầu đã được nhất quán áp dụng. Kết quả là trong năm 2013 tiêu dùng cuối cùng đã tăng 5,36% (theo giá 2010) so với năm 2012, tích lũy tài sản tăng 5,45%. Hai mức tăng này đều tương tự như tốc độ tăng trưởng kinh tế (5,42%), phản ánh một quá trình tăng trưởng cân đối cung – cầu kế thừa từ mức cân đối hợp lý được thiết lập từ cuối năm 2012. Trong quá trình đó, tiêu dùng cuối cùng đóng góp tới 3,72% vào tốc độ tăng trưởng GDP (3,72%/5,42%) trong khi tích lũy chỉ đóng góp 1,62%, tức là tiêu dùng đang trở thành nhân tố cơ bản thúc đẩy tăng trưởng thay cho nhân tố đầu tư. Nếu nhìn lại tốc độ tăng trưởng tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng khoảng 5,6% (đã trừ yếu tố tăng giá) đã nêu ở trên cũng tương tự với tốc độ tăng trưởng kinh tế thì càng rõ có sự hài hòa về tăng trưởng trong năm 2013.
5) Xuất khẩu vẫn giữ vai trò quan trọng đối với tăng trưởng trong khi cán cân thương mại đang chuyển về điểm cân bằng
Cũng như đầu tư, xuất khẩu đã trở thành một trong những nhân tố quan trọng nhất tạo ra bước phát triển kinh tế nhanh trong thời kỳ đổi mới. Đặc biệt, sau khi ký Hiệp định thương mại Việt Mỹ và tiếp đó trở thành thành viên đầy đủ của WTO, điều kiện trao đổi thương mại, thu hút đầu tư thuận lợi hơn rất nhiều so với trước; tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu đều tăng lên rất mạnh, khoảng 25% mỗi năm. Đến nay kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu đều đã gần tương đương với GDP của toàn nền kinh tế; qua đó đã chiếm vị thế rất quan trọng đối với tăng trưởng chung.
Điểm son đáng chú ý nhất là kim ngạch xuất khẩu thường xuyên tăng nhanh hơn kim ngạch nhập khẩu, dẫn tới xuất siêu nhẹ ngay trong năm 2012 và xuất siêu tiếp luôn trong năm 2013; đây là hiện tượng lần đầu tiên xảy ra kể từ năm 1993. Điều này phản ánh một sự ổn định tích cực, cán cân thương mại đang chuyển dần về điểm cân bằng, cần tiếp tục phát huy để duy trì ổn định vững chắc, tiến tới liên tục xuất siêu để có ngoại tệ trả các khoản nợ nước ngoài vay từ nhiều năm trước.
Mặt khác, quá trình dịch chuyển cơ cấu xuất khẩu trong năm qua cũng đang thay đổi theo hướng tích cực hơn: Tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đều tăng lên trong khi tỷ trọng xuất khẩu hàng nông lâm hải sản giảm mạnh (từ 14,7% năm 2012 xuống còn 12,5% năm 2013). Đặc biệt, trong nhóm hàng công nghiệp, tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp nặng và khoáng sản, nhất là dầu thô, than đá, tiếp tục giảm xuống trong khi tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp lại tăng lên rất nhanh.
Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng của khá nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực, phát triển dựa trên lợi thế so sánh và hướng ngoại cũng đã đạt được tốc độ tăng trưởng rất cao như hàng dệt may tăng 18,6%, rau quả 25,7%, túi xách, ví, va li, mũ, ô dù 27,6%, hóa chất 32,4%, điện tử, máy tính và linh kiện 36,2%, điện thoại và linh kiện 69,2%... Ngoài ra, xu hướng mở rộng các thị trường có sức mua cao tiếp tục phát triển. Điều này cũng cho thấy dù nền kinh tế nội địa gặp nhiều khó khăn nhưng sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của hàng hóa xuất khẩu nói riêng tiếp tục được cải thiện trong môi trường cạnh tranh quốc tế ngày càng khốc liệt.
Tính chung cả năm 2013, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 132,2 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm 2012; kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 131,3 tỷ USD, tăng 15,4%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa xuất và nhập khẩu năm 2013 đều tăng tới 18,3% so với năm 2012, tức là gấp 3,4 lần tốc độ tăng trưởng GDP; đây là tương quan tỷ lệ đã diễn ra trong những năm đầu đổi mới và là ước mong của nhiều nhà quản lý trong suốt thập kỷ qua nhưng đến nay mới đạt được.
6) Cân đối ngân sách đang trở lại mức hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển.
Năm 2013 vừa qua là một năm đầy thử thách với ngành tài chính. Riêng trong lĩnh vực ngân sách, đã có những khó khăn chồng chất tưởng chừng khó vượt qua để thu hút đủ nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu chính phủ: Tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp; tình trạng doanh nghiệp phá sản, giải thể hoặc giảm hoạt động diễn ra phổ biến khắp nơi trong năm 2012 và kéo dài đến giữa năm 2013; nợ quốc gia, nợ của khu vực doanh nghiệp tăng nhanh; nhiều loại thuế phải giảm theo các cam kết hội nhập kinh tế, hoặc hoãn, miễn, giảm để hỗ trợ các doanh nghiệp vượt khó... Khó về thu nhưng nhu cầu chi ngân sách để trả nợ, để giải quyết những nhu cầu xã hội cấp bách, để vừa kích cầu khu vực này, vừa kích cung khu vực khác lại rất lớn.
Bất ngờ là nền tài chính quốc gia nói chung, cân đối ngân sách nhà nước nói riêng trong năm qua vẫn duy trì được những cân đối cần thiết, vừa tiếp tục củng cố ổn định kinh tế vĩ mô, vừa góp phần khai thác tốt hơn các nguồn tài lực. Theo ước tính của Bộ Tài chính, tổng thu ngân sách nhà nước cả năm 2013 đạt khoảng 824 nghìn tỷ đồng, vượt 1% so với dự toán năm. Tỷ lệ thu ngân sách trên GDP đạt khoảng 23%. Nếu như tổng chi ngân sách đạt 986,2 nghìn tỷ đồng như ước tính và bằng 100,8% dự toán năm, thì tỷ lệ chi ngân sách bằng 27,5% GDP. Bội chi ngân sách cả năm (chưa kể chuyển nguồn) chỉ tương đương 4,5% GDP, một con số thật mơ ước trong bối cảnh kinh tế xã hội hiện nay. Với kết quả này, ngành tài chính hoàn toàn có thể giảm tỷ lệ bội chi ngân sách xuống thấp hơn nhiều so với mức 5,3% GDP được Quốc hội phê duyệt, qua đó kinh tế vĩ mô năm 2014 sẽ vững chắc hơn, đồng thời gánh nặng nợ công cũng giảm đáng kể.
Đáng lưu ý là các tỷ lệ thu chi ngân sách trên GDP đang có xu hướng giảm dần về mức phù hợp với một nền kinh tế thị trường ở một quốc gia có thu nhập trung bình. Nếu như tới đây khu vực kinh tế nhà nước được thu hẹp dần (dù vẫn đóng vai trò chủ đạo, nòng cốt), nhà nước cũng rút dần ra khỏi một số lĩnh vực, trong khi khu vực kinh tế thị trường phát triển mạnh thì hoàn toàn có thể tiếp tục giảm sâu hơn nữa tỷ lệ chi ngân sách trên GDP để vừa khoan sức dân, hỗ trợ doanh nghiệp, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách.
Năm 2013 cũng là năm dư nợ Chính phủ, dư nợ nước ngoài tiếp tục được duy trì ở mức hợp lý, bền vững, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia hiện nay và thời gian trung hạn tới. Tổng số nợ nước ngoài tăng lên nhưng tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP có xu hướng giảm. Tính đến hết năm, nợ công dự kiến tương đương 56,2% GDP, nợ Chính phủ bằng 42,6% GDP trong khi nợ nước ngoài của quốc gia là 39,5% GDP. Thị trường chứng khoán tại hai sàn đều tăng trưởng khoảng 22%; giá trị giao dịch cổ phiếu bằng 30% và là một trong 10 TTCK có mức tăng trưởng nhanh trên thế giới; thị trường giao dịch trái phiếu Việt Nam đã được bình chọn là thị trường phát triển tốt nhất Châu Á, giá trị vốn hoá thị trường đạt 31% GDP; tổng tài sản của 500 người giàu nhất trên sàn tăng khoảng 10%, đạt trên 82.700 tỷ đồng. Hoạt động bảo hiểm đã bắt đầu có một số nét khởi sắc… Đây cũng là những điểm sáng cần nhắc tới trong hoạt động tài chính năm 2013.
7) Lạm phát trở về mức an toàn, cần tiếp tục giữ ổn định
Trong hai năm gần đây, chính sách tiền tệ ở nước ta đã được điều hành khá hợp lý để đảm bảo kiểm soát được lạm phát, mục tiêu hàng đầu của ổn định kinh tế vĩ mô. Đặc biệt năm 2013 chính sách tiền tệ được nới lỏng hơn nhưng vẫn duy trì được tỷ lệ lạm phát ở mức phù hợp đồng thời góp phần hỗ trợ quá trình tăng trưởng, nhất là xử lý nợ xấu, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và khu vực doanh nghiệp nhà nước. Tổng phương tiện thanh toán tăng 15% hơi cao nhưng chấp nhận được trong bối cảnh cần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Nguồn vốn huy động tăng khoảng 24%. Dư nợ cho vay toàn nền kinh tế tăng khoảng 11%. Tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại được cải thiện rõ rệt so với năm 2012, đảm bảo khả năng thanh toán và chi trả của hệ thống. Tỷ giá ngoại tệ ổn định; dự trữ ngoại hối tăng cao.
Trong năm 2013, tỷ trọng cho vay khu vực ngoài quốc doanh ngày đã tăng trở lại, tỷ trọng tín dụng dành cho khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm xuống. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tín dụng giảm dần. Đã tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành quy định pháp luật về quản lý giá, qua đó xử lý nhiều hành vi vi phạm. Vừa kiên quyết áp dụng các biện pháp bình ổn thị trường, vừa kiên trì thực hiện nhất quán chủ trương quản lý giá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước đối với điện, than, xăng dầu, dịch vụ công theo lộ trình với mức độ và thời gian điều chỉnh phù hợp để đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát; thông tin tuyên truyền công khai hơn, minh bạch hóa chi phí, giá sản xuất, tiêu thụ điện, than, xăng dầu, dịch vụ công..., tạo sự đồng thuận trong xã hội.
Nhờ thực thi chính sách tài chính lành mạnh, chính sách tiền tệ hợp lý nên đã cơ bản duy trì được hệ thống giá ổn định; tỷ lệ lạm phát nằm trong tầm kiểm soát và phù hợp với bối cảnh chung. Chỉ số giá tiêu dùng cả năm tăng 6,04% là mức tăng thấp trong 10 năm qua (2004-2013); đây cũng là mức an toàn, cần tiếp tục duy trì hoặc giảm một chút ở tầm trung hạn.
Đồ thị 6: Tốc độ tăng giá tiêu dùng giai đoạn 2000-2013 (%)
Mặc dù có những tín hiệu tốt nhưng hoạt động ngân hàng vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức. Tỷ lệ nợ xấu bắt đầu giảm nhưng vẫn ở mức cao; chất lượng tín dụng chưa thực sự được cải thiện; nợ xấu chưa được phân loại và đánh giá đầy đủ, chính xác theo chuẩn mực quốc tế. Hiệu quả kinh doanh của các tổ chức tín dụng rất thấp so với các năm trước đây. Chênh lệch thu nhập - chi phí năm 2013 của toàn hệ thống chỉ tăng khoảng 3,2% so với năm 2012. Chênh lệch giữa lãi suất đầu ra và lãi suất đầu vào thấp, trong khi chi phí trích lập dự phòng rủi ro tăng mạnh do chất lượng tài sản giảm sút... Đây là những thách thức cần tiếp tục xử lý trong năm 2014.
8) Đánh giá toàn cảnh kinh tế vĩ mô năm 2013:
Nhìn bức tranh tổng thể kinh tế vĩ mô năm 2013 nêu trên, có thể khẳng định nền kinh tế đã có những tiến bộ nhất định và quan trọng hơn, đang đi đúng hướng. Đối với một nền kinh tế mới thoát khỏi ngưỡng nước nghèo chưa lâu, trong điều kiện cơ cấu kinh tế vĩ mô mất cân đối nghiêm trọng kéo dài và môi trường quốc tế không thuận, đạt được những thành tựu vĩ mô nêu trên là rất đáng khích lệ.
Điểm sáng lớn nhất là các cân đối vĩ mô đã bước đầu chuyển dịch về các “tọa độ” cân bằng trung hạn, tới đây có thể sẽ bền vững và hiệu quả. Thực vậy, đối với mỗi nền kinh tế đều có một tốc độ tăng trưởng kinh tế tiềm năng (trung, dài hạn) đi kèm với những cân đối vĩ mô tương ứng. Điều này cũng giống như một tốc độ tăng trưởng kinh tế tiềm năng phải đi kèm với một tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên hay một tỷ lệ lạm phát tự nhiên vậy.
Nếu đưa tất cả vào một mô hình tính toán cân đối, chúng ta hoàn toàn có thể xác định được đi kèm với một tốc độ tăng trưởng kinh tế tiềm năng cân bằng trung hoặc dài hạn, ví dụ 7% như ở nước ta trong giai đoạn trước và 5,5-6% trong giai đoạn hiện nay (bằng tốc độ tăng trưởng trung bình của 6 năm 2008-2013), thì những chỉ tiêu cơ bản liên quan như đầu tư, lao động, tiêu dùng, xuất nhập khẩu, ngân sách, lạm phát... cần tương ứng là bao nhiêu. Đây chính là bộ các “tọa độ” cân bằng (trung, dài hạn), hay trục, quỹ đạo tăng trưởng bền vững của nền kinh tế. Nếu nền kinh tế đang phát triển chệch (tăng trưởng nóng hoặc lạnh) với quỹ đạo tăng trưởng tiềm năng, thông qua các điều chỉnh chính sách, chúng ta có thể đưa nền kinh tế quay trở lại quỹ đạo phát triển tiềm năng. Quá trình này gọi là bước hay quá trình điều chỉnh kinh tế; thời gian cần thiết để quay trở lại được gọi là thời gian hay tốc độ điều chỉnh kinh tế. Trong giai đoạn trung hạn 2008-2013, nền kinh tế đã tăng trưởng quá nóng vào năm 2010 gây ra những bất ổn rất nghiêm trọng, cần đến 3 năm (2011-2013) để trở về quỹ đạo cân bằng, nhưng chưa bền vững và chưa thật hiệu quả (ví dụ năm 2012 đã hạ cánh quá nhanh, thắt chặt tài chính tiền tệ quá mạnh, tỷ lệ lạm phát giảm đột ngột...); có lẽ còn cần ít nhất 2 năm nữa cân bằng vĩ mô mới trở nên thực sự bền vững và phát huy hiệu quả, tạo điều kiện để nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế tiềm năng cho giai đoạn phát triển tiếp theo.
Nghiêm túc mà nói, đối với nền kinh tế nước ta, đã qua rồi giai đoạn tăng trưởng dễ dàng. Nếu không có những đổi mới mạnh mẽ, kiên quyết thì tốc độ tăng trưởng kinh tế tiềm năng không thể cao bằng giai đoạn trước. Khác với những năm đầu đổi mới – mở cửa, khi đó nhu cầu của dân cư sau thời kỳ chiến tranh thắt lưng buộc bụng và bao cấp khắc khổ đã tăng lên rất nhanh đồng thời tốc độ tăng trưởng dân số cũng rất cao, cần một tốc độ tăng trưởng lên tới 7-7,5%/năm để thỏa mãn. Ngày nay, đời sống nhân dân đã thay đổi rõ rệt so với trước trong khi tốc độ tăng trưởng dân số cũng đã chậm lại rất đáng kể (chỉ còn 1%) nên sức ép phải tăng trưởng nhanh thực sự không quá lớn. Vấn đề quan trọng hơn là chất lượng tăng trưởng và chính sách điều tiết, phân chia thu nhập hợp lý; đặc biệt cần kiên quyết chống tham nhũng để những thành tựu về tăng trưởng đến tay người lao động, người nghèo chứ không chỉ lọt vào tay người giầu. Trong bối cảnh hiện nay, một tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 5,5-6% là hoàn toàn phù hợp; tương ứng với nó là tỷ lệ đầu tư trên GDP cũng không nên quá 30%, thu ngân sách không nên vượt quá 23% GDP; tỷ lệ lạm phát không nên quá 6-7%... Vì thế mới nói đối chiếu những chỉ tiêu, “tọa độ” này với bức tranh tổng thể kinh tế vĩ mô năm 2013 nêu trên, có thể tin rằng nền kinh tế đã đi tới đáy và đang lập được trạng thái cân bằng, ổn định, dù chưa bền vững.
Khái quát lại, trong năm 2013, nền kinh tế nước ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng hợp lý; cơ cấu kinh tế và các cân đối vĩ mô chuyển dịch theo hướng tích cực. Tăng trưởng vẫn phụ thuộc các các nhân tố tăng trưởng của những năm trước là đầu tư, lao động, xuất khẩu và tiêu dùng; tuy nhiên vai trò của chúng đang được điều chỉnh. Trong khi vai trò của đầu tư giảm mạnh, vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu ổn định thì vai trò của lao động, đặc biệt của năng suất lao động, đã tăng lên rất nhanh. Tiêu dùng đang nổi lên, thay cho vốn đầu tư, trở thành nhân tố cơ bản thúc đẩy tăng trưởng, trong đó tiêu dùng chính phủ đang giữ vị trí rất quan trọng. Điều này phản ánh tác động của các nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng (vốn, lao động) đã chậm lại, trong khi tác động của các nhân tố theo chiều sâu (hiệu quả đồng vốn, năng suất lao động) và thị trường (tiêu dùng) tăng nhanh. Các hoạt động tài chính, ngân hàng, thương mại, giá cả đều phát triển ổn định hơn và trong phạm vi hợp lý.
Tuy nhiên, nhiều khó khăn thách thức vẫn tồn tại, có mặt trở lên gay gắt hơn. Cân đối kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát nhưng chưa vững chắc. Sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn; số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động còn lớn. Cân đối ngân sách khó khăn, bội chi 5% vẫn quá cao. Nợ xấu cao, rủi ro lớn. Thực hiện lộ trình giá thị trường đối với nhiều hàng hóa và dịch vụ thiết yếu chậm. Hoạt động của một số tổ chức tín dụng chưa thực sự an toàn. Thị trường bất động sản trầm lắng; nguy cơ khủng hoảng vẫn rất lớn. Hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; hệ số ICOR cao. Các chương trình tái cơ cấu được thực hiện quá chậm. Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng chậm lại, giá thành quá cao... có nguy cơ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm tới. Chênh lệch giầu nghèo, bất công đã trở lên quá lớn gây nhiều bức xúc trong xã hội.
Bao trùm lên tất cả và là nguy cơ chính gây mất ổn định kinh tế trong thời gian tới là tốc độ cải cách kinh tế, cải cách thể chế, cải cách hành chính đều quá chậm. Quy trình xây dựng, chất lượng và tổ chức thực hiện pháp luật, chính sách rất yếu. Kỷ luật kỷ cương hành chính chưa nghiêm; tác dụng của công tác giám sát, thanh tra rất hạn chế. Chất lượng giáo dục đào tạo và nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu, có mặt giảm sút. Tội phạm và tệ nạn xã hội vẫn diễn ra khắp nơi nhưng không có giải pháp căn cơ xử lý.
9) Nhìn về tương lai: Muốn gì và cần làm gì trong năm 2014
Bối cảnh phát triển kinh tế năm 2014 có những mặt thuận nhưng cũng có nhiều mặt không thuận. Kinh tế thế giới phục hồi chắc chắn sẽ mang lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp nước ta. Tuy nhiên, như dự báo của nhiều tổ chức quốc tế, tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ tăng lên nhưng không mạnh. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) ước tăng trưởng kinh tế thế giới đã đạt 3% năm 2013 và sẽ tăng lên 3,4-3,6% năm 2014. Đáng nể nhất là những nền kinh tế công nghiệp đã có bước phục hồi khá vững chắc (như Mỹ tăng trưởng tới 3% trong năm tới); trong khi đó những nền kinh tế mới nổi và có thời tăng trưởng rất nhanh lại phục hồi chậm chạp.
Nhờ kinh tế phục hồi, tới đây các nước công nghiệp sẽ đồng loạt cắt giảm chương trình kích cầu. Lãi suất ở Mỹ và châu Âu sẽ tăng; nguồn vốn từ các nước đó chạy vào Việt Nam và các nước đang phát triển khác sẽ chậm lại vì chúng sẽ lưu lại ở Mỹ và các nước công nghiệp phát triển do lãi suất ở đó cao. Điều này sẽ ảnh hưởng tới thu hút đầu tư nước ngoài của nước ta, và do đó sẽ ảnh hưởng tới khả năng tăng trưởng trung hạn và dài hạn.
Ở tầm trung và dài hạn, có thể thấy rõ kinh tế toàn cầu nói chung và của các nước đang phát triển châu Á nói riêng sẽ khó có thể lập lại những tốc độ tăng trưởng thần kỳ đạt được trong nửa sau thế kỷ 20. Kinh tế Mỹ đã từ hơn chục năm nay chỉ tăng trưởng khoảng 1-3%, giảm mạnh so với 4-5% trong nhiều năm trước đó. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước khối EU cũng giảm mạnh tương ứng. Kinh tế Trung Quốc dự kiến chỉ tăng trưởng khoảng 6,5-7%/năm so với liên tục 10%/năm trong suốt 30 năm gần đây.
Trong bối cảnh thế giới như vậy, nếu như Việt Nam giữ được tốc độ tăng trưởng khoảng 5,5-6% trong những năm tới thì đã là điều rất đáng mừng.
Trong năm 2014 và 1-2 năm tiếp theo, chúng ta cần kiên trì mục tiêu tăng trưởng GDP chỉ khoảng 5,5-6%, tập trung sức nâng cao chất lượng tăng trưởng, xây dựng thể chế kinh tế thị trường phù hợp với trình độ phát triển, đẩy mạnh tái cơ cấu lại nền sản xuất, xử lý tốt thị trường bất động sản, làm sạch tình trạng nợ xấu, ổn định tỷ lệ thu và giảm nhanh tỷ lệ bội chi ngân sách, đảm bảo cân bằng ngoại thương, giữ vững được những cân đối vĩ mô đã đạt được năm 2013 như mô tả ở trên, kiên quyết chống tham nhũng, cải cách mạnh mẽ bộ máy nhà nước theo hướng tận tâm phục vụ dân... thì hoàn toàn có thể năng cao hơn nữa tiềm năng tăng trưởng trung và dài hạn để từ sau những năm 2017-2020 có thể đưa được tốc độ tăng trưởng kinh tế về 7,5%/năm như đã có trong suốt 20 năm đầu đổi mới (1989-2009).
Hai vấn đề then chốt để tăng trưởng nhanh, vững chắc và thoát được ra khỏi cái bẫy thu nhập trung bình là kiên trì xây dựng một “thể chế kinh tế thị trường phù hợp” và lấy “chất lượng tăng trưởng” làm mục tiêu tối thượng,
Nguyên tắc tối cần thiết đặt ra trong suốt năm 2014 là: Kiên định không chạy theo tăng trưởng nhanh; lấy ổn định vĩ mô và phát triển hài hòa (kinh tế, xã hội, môi trường) làm đại cục để thay đổi hoàn toàn cục diện "tăng trưởng nhanh - khủng hoảng lớn" luân phiên kéo dài hàng chục năm qua. Nói ít, làm nhiều; cái gì có lợi cho dân, cho nước thì nhất định làm; cái gì hại nhất thiết phải bỏ. Lãnh đạo phải luôn luôn khảm một câu trong đầu: “Kiên trì, không vội. Kiên trì, chính là thắng lợi!”.
*****
Kinh tế vĩ mô: những điểm sáng năm 2013 và định hướng năm 2014
Tác giả: ...
Tên tạp chí: Nghiên cứu kinh tế
Năm phát hành: 2014
Số phát hành: Số 2(429)/2014
Kiểu tài liệu: Tạp chí Chuyên ngành
Ngày cập nhật: 13/03/2014
Từ khóa: Kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế, Năng suất lao động, Xuất khẩu, Lạm phát
Chủ đề: Kinh tế - Vĩ mô
Ngôn ngữ: Tiếng Việt
Nơi lưu trữ: 209 Phan Thanh
Chương trang: Tr. 3-12.
Số ký hiệu: ...
Tóm tắt: Phân tích, đánh giá, nêu bật những điểm sáng của bức tranh tổng thể kinh tế vĩ mô năm 2013 của nước ta, từ đó đưa ra định hướng phát triển bền vững, ổn định cho nền kinh tế Việt Nam năm 2014.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét