KẾ HOẠCH HOÁ NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
I) VAI TRÒ KẾ HOẠCH HOÁ TRONG NỀN KINH
TẾ
1) Kế hoạch hoá (KHH) nền kinh tế quốc
dân
(1)
Kế hoạch hoá (KHH) nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh chuyển đổi sang kinh tế
thị trường (KTTT) là một vấn đề hết sức mới mẻ không những ở nước ta mà còn ở
nhiều nước đang phát triển trong nhiều thập kỷ qua. Vì đây là vấn đề mới, nên
trước khi đi vào phân tích, tìm hiểu quan điểm của Đảng ta về công tác KHH
trong bối cảnh chuyển đổi sang KTTT, cần có một số hiểu biết về lý thuận và
thực tiễn công tác KHH nền kinh tế quốc dân (KTQD) tại các nước theo KTTT.
Theo
quan niệm phổ biến hiện nay, kế hoạch hóa là hoạt động của con người trên cơ sở
nhận thức và vận dụng các quy luật xã hội và tự nhiên, đặc biệt là các quy luật
kinh tế, xã hội để tổ chức, quản lý các đơn vị kinh tế, xã hội, các ngành, lĩnh
vực kinh tế, xã hội và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo những mục tiêu chung,
đồng thời có những giải pháp tương ứng để bảo đảm thực hiện được những mục tiêu
chung đó với hiệu quả kinh tế, xã hội cao nhất.
Ở
tầm vĩ mô, kế hoạch hoá bao gồm các công đoạn: (1) Lựa chọn các mục tiêu, các
phương án phát triển kinh tế, xã hội có hiệu quả nhất trên cơ sở các dự báo;
(2) Lựa chọn các giải pháp, công cụ, nhất là nguồn lực, để bảo đảm thực hiện
các mục tiêu, phương án nêu trên; (3) Tổ chức triển khai thực hiện, theo dõi,
giám sát và đánh giá việc thực hiện.
Trong
các nền kinh tế thị trường phát triển, công tác KHH chỉ phát triển mạnh ở cấp
các doanh nghiệp, không được thực hiện ở cấp nền KTQD theo cách hiểu của ta.
Nội dung chính của các báo cáo do các cơ quan kế hoạch công bố là các phân
tích, dự báo kinh tế; mà mục tiêu của nó là cung cấp thông tin phục vụ nhu cầu
của khu vực tư nhân. Thông tin này gồm hai loại: Thông tin dự báo các khả năng
phát triển của nền KTQD và thông tin về các chính sách chính phủ sẽ áp dụng để
đưa nền kinh tế hoạt động theo quỹ đạo phát triển bền vững.
(2)
Trong các tài liệu về kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân, người ta thường đề cập
tới ba nội dung sau:
-
Vai trò của Nhà nước, vai trò của thị trường và ưu nhược điểm của từng loại
theo các loại học thuyết kinh tế khác nhau, chủ yếu so sánh các học thuyết Keynes
và tân cổ điển. Từ đây rút ra vai trò của công tác KHH.
-
Các chính sách kinh tế mà Nhà nước có thể sử dụng để dẫn dắt, lái và điều tiết
nền kinh tế thị trường phát triển để đảm bảo quá trình phát triển bền vững,
không có khủng hoảng và hạn chế tính chu kỳ trong phát triển.
-
Đối với các nước đang phát triển, người ta nhấn mạnh thêm vai trò của đầu tư
công cộng, phương pháp đánh giá hiệu quả đầu tư công cộng ở cấp KTQD, cấp ngành
và cấp các dự án.
(3)
Nhìn toàn cục, trong xu hướng hiện nay, các chính phủ thường sử dụng những công
cụ điều tiết tổng KTQD nhằm hạn chế những kiếm khuyết, mất cân đối của thị
trường, làm cho thị trường phát triển cân đối hơn, hợp lý hơn, và nhờ đó kinh
tế tự nhiên sẽ phát triển nhanh hơn. Đối với các nước công nghiệp, thường trong
kế hoạch không đặt ra các mục tiêu rất cụ thể như tỷ lệ tăng trưởng, làm
phát... mà chỉ đưa ra các dự báo. Bốn vai trò chủ yếu của công tác KHH trong
nền KTTT là:
-
Vai trò định hướng phát triển: Thông qua KHH với những công cụ quản lý trực
tiếp và gián tiếp, nhà nước có thể điều chỉnh, hạn chế sự phát triển tự phát
của nền kinh tế, bảo đảm sự phát triển cân đối, hài hòa giữa các ngành, các
vùng, nhất là trong lĩnh vực sản xuất hàng hóa và dịch vụ công cộng.
-
Vai trò tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp và
mọi thành viên trong xã hội: Xây dựng khung khổ pháp luật cần thiết, các cơ chế
chính sách phù hợp với cam kết và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế; xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế, xã hội để mọi doanh nghiệp, cá nhân có điều kiện kinh
doanh tốt hơn, bảo đảm sự phát triển cân đối giữa các vùng, miền.
-
Vai trò cung cấp các dịch vụ cơ bản về kinh tế và xã hội như kết cấu hạ tầng
kinh tế, xã hội cơ bản, nhất là giáo dục tiểu học, chăm sóc sức khoẻ ban đầu,
cung cấp nước sạch ở nông thôn, tạo thêm công ăn việc làm...
-
Vai trò điều tiết nhằm đảm bảo tương quan hợp lý giữa phát triển kinh tế với
tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường: Điều tiết thu nhập thông qua
kế hoạch hóa chính sách tài chính, tiền tệ; thực hiện nhiều hình thức phân phối
có lợi cho người nghèo...
2) Kinh nghiệm một số nước công nghiệp
phát triển
(1)
Trong thực tiễn, kinh nghiệm KHH nền KTQD trên thế giới khá đa dạng. Mỹ và Đức
không xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế vĩ mô toàn diện, không xây dựng
các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội (KT-XH) với những mục tiêu cụ thể,
rõ ràng cho toàn nền KTQD, mà chỉ xây dựng các chương trình, biện pháp mang
tính định hướng trung và dài hạn cho một số lĩnh vực, gắn với các dự án thuộc
những lĩnh vực này. Các chương trình này được gắn với kế hoạch sử dụng vốn đầu
tư công cộng và kế hoạch cân đối ngân sách liên bang, do đó được Quốc hội thông
qua dưới dạng luật.
Về
phát triển ngắn hạn, vào tháng giêng hàng năm, các chính phủ Mỹ và Đức có báo
cáo tình hình kinh tế thường niên trước hạ viện và thượng viện. Đây không phải
là báo cáo kế hoạch năm mà chỉ là bản phân tích thực trạng kinh tế thế giới và
trong nước năm qua, dự đoán tình hình năm tới và đề xuất một số chính sách sắp
tới của chính phủ nhằm cải thiện tình hình, làm nền kinh tế phát triển thuận
lợi hơn, phù hợp với tiềm năng. Về bản chất, những thông tin, số liệu trong các
bản báo cáo chỉ mang tính dự báo, cung cấp thông tin hoặc gợi ý chứ không mang
tính mục tiêu mà nền KTQD phải phấn đấu đạt được như trong các bản kế hoạch tại
các nước đang phát triển.
(2)
Công tác KHH tại Pháp có lịch sử khá lâu đời vì Nhà nước Pháp luôn luôn khá
mạnh và giữ vai trò quan trọng trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội. Pháp bắt
đầu có các kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân từ sau thế chiến thứ II. Cơ
quan kế hoạch của Pháp được hình thành năm 1946 với 3 chức năng cơ bản là: (i)
Dự thảo kế hoạch; (ii) Tư vấn các chính sách: (iii) Nghiên cứu, đưa ra các dự
báo dài hạn. Hiện nay, Pháp đang thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 15 kể từ kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất 1947-1953. Quá trình phát triển công tác KHH của Pháp
có thể được chia làm 2 giai đoạn lớn: Giai đoạn vàng son 1945-1975 (được gọi là
30 năm quang vinh của CNTB Pháp) và giai đoạn giảm dần vai trò của KHH từ cuối
những năm 1970 đến nay.
Pháp
không xây dựng các kế hoạch hàng năm mà chỉ xây dựng các kế hoạch 5 năm và định
hướng phát triển dài hạn hơn. Các định hướng dài hạn gồm các dự báo 10, 15 hoặc
20 năm về khả năng phát triển tổng thể nền KTQD và các ngành, lĩnh vực lớn. Bản
chất của KHH của Pháp là kế hoạch hướng dẫn chứ không phải kế hoạch bắt buộc.
Các kế hoạch của Pháp hết sức đề cao, tôn trọng và phát huy những nguyên tắc
của KTTT, đồng thời có biện pháp sửa chữa những khuyết tật của nó (ví dụ khuyết
tật chỉ nhìn lợi nhuận ngắn hạn, thiển cận và tính bất công về mặt xã hội). KHH
ở Pháp tập trung vào tầm trung và dài hạn. Pháp chống lại cái gọi là sự thống
trị của ngắn hạn.
Các
đổi mới trong công tác KHH tại Pháp được tập trung vào: Tăng cường chất lượng
các dự đoán kinh tế, đề cao vai trò của công cụ mô hình hoá phát triển. Tập
trung vào kế hoạch 5 năm, nhưng vẫn đảm bảo tính đơn giản, mềm mại, tôn trọng
các quy luật của KTTT. KH chỉ gồm một số mục tiêu và biện pháp cơ bản nhất.
Giảm phần định lượng, tăng phần định tính, và tăng cường chất lượng của phần
định lượng còn lại. Gần như bỏ tất
cả các chỉ tiêu hướng dẫn về sản lượng. Giảm các tính toán ngành (chiều dọc),
tăng các tính toán liên ngành và cân đối tổng hợp (chiều ngang). Phân cấp mạnh
cho các địa phương, mở rộng quyền cho các vùng, địa phương, doanh nghiệp. Tăng
cường năng lực phân tích, dự báo cho cơ quan kế hoạch hóa trực thuộc Thủ tướng
Chính phủ.
(3) KHH ở Nhật bản có một số đặc điểm là:
+ Các kế hoạch đều có mục tiêu cụ thể. Điều này khác
với Mỹ, Đức và Pháp vì ở cả ba nước này, KHH chỉ mang tính chất dự báo khả năng
phát triển và thông báo các biện pháp trung và dài hạn như là những cam kết của
chính phủ đối với nền kinh tế.
+ Kế hoạch của Nhật chỉ mang tính định hướng, không
bắt buộc, nhưng có hai tác dụng quan trọng: 1) cung cấp thông tin, dự đoán kinh
tế để các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn
cho mình, và 2) Thể hiện các cam kết chính sách trung và dài hạn của chính phủ,
kể cả chính sách chi tiêu công cộng cho tiêu dùng và đầu tư.
+ Công tác kế hoạch hoá của Nhật sử dụng rộng rãi
nhiều mô hình kinh tế lượng trong lập kế hoạch. Phạm vi tính toán từ các mô
hình rất rộng, bao phủ hầu hết mọi hoạt động của nền kinh tế.
3)
Kinh nghiệm một số nước đang phát triển
(1) Trung Quốc:
Từ khi thành lập nước CHĐCN Trung Hoa đến nay, Trung
Quốc luôn luôn đề cao vai trò của công tác KHH mặc dù cách sử dụng công cụ KHH
từ đó đến nay đã thay đổi cơ bản. Trong giai đoạn 1953-1980, Trung Quốc áp dụng
cơ chế KHH tập trung theo mô hình Liên Xô cũ, song từ năm 1980 (từ KH 5 năm lần
thứ 10), Trung Quốc chuyển sang mô hình CNXH mang mầu sắc Trung Quốc, trong đó
vai trò của KTTT được đề cao. Cơ chế KHH tập trung bị xoá bỏ, thay vào đó bằng
cơ chế KHH gián tiếp, trong đó:
- Kế hoạch mang tính hướng dẫn chứ không mang tính
pháp luật; việc giao chỉ tiêu kế hoạch giảm dần.
- Tăng tính mềm dẻo để cho phù hợp với thực tiễn.
- KHH là quá trình liên tục từ khi lập kế hoạch đến
khi thực hiện xong kế hoạch, bao gồm cả đánh giá hiệu quả từng bước thực hiện
kế hoạch và điều chỉnh chính sách trong quá trình thực hiện. Do đó phải kết hợp
tốt các kế hoạch dài, trung và ngắn hạn.
- Nội dung KHH được mở rộng, từ chỉ kế hoạch hoá về
kinh tế (tăng trưởng và thay đổi cơ cấu) sang KHH cả các lĩnh vực xã hội và môi
trường.
- Sử dụng rộng rãi các chỉ tiêu giá trị thay cho chỉ
tiêu hiện vật.
- Tập trung xử lý mối quan hệ giữa ngắn hạn và dài
hạn, giữa tăng trưởng và phân phối công bằng. Đảm bảo thành quả, lợi ích của
phát triển phải được phân chia cho đa số quần chúng dân cư chứ không phải chỉ
cho một nhóm người.
- Sử dụng các kỹ thuật hiện đại trong công tác kế
hoạch: các kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các mô hình và lý thuyết kinh tế
vĩ mô. Do đó vai trò của các lý thuyết kinh tế vĩ mô rất quan trọng, có ý nghĩa
như triết lý của quá trình phát triển.
Uỷ ban kế hoạch nhà nước Trung Quốc được thay bằng Uỷ
ban cải cách và thể chế để tập trung hơn vào KHH các cân đối vĩ mô và tăng
cường các khâu phân tích, dự báo, xây dựng chính sách trung và dài hạn.
(2) Các nước Đông Nam Á và các nước công nghiệp mới:
Cũng như các nước đang phát triển khác, sau thế chiến
thứ II, các nước Đông Nam á đã coi KHH trực tiếp là công cụ quan trọng nhất để
tập trung nguồn lực, phát triển nhanh và vững chắc. Cơ quan kê hoạch tại các
nước Đông Nam á đều giữ vị trí quan trọng bậc nhất trong Chính phủ. Thậm chí
tại hầu hết các nước Đông Nam á, lãnh đạo cơ quan kế hoạch là Thủ tướng (Mã lai
xia, Inđônêxia, Singapore...) hoặc phó thủ tướng (Hàn Quốc, Thái Lan,...).
Tuy nhiên, khác với các nước thuộc hệ thống XHCN, ngay
từ đầu những năm 1960, các nước Đông Nam á và các nước công nghiệp mới đã nhận
thấy KHH trực tiếp không hiệu quả vì phần lớn các kế hoạch đề ra đều không thực
hiện được do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là từ bản thân quy trình KHH.
Những yếu kém bao gồm: chủ quan, tham vọng trong xây dựng kế hoạch; thông tin,
số liệu không đầy đủ, thiếu chính xác; kế hoạch không gắn với thực tiễn; tổ
chức thực hiện không tốt, không đồng bộ... Do đó, các nước này đã mạnh dạn đổi
mới căn bản công tác lập kế hoạch ngay từ đầu những năm 1970:
- Nội dung kế hoạch ngày càng đầy đủ hơn, không chỉ
KHH phát triển kinh tế mà cả xã hội, môi trường, trong đó rất nhấn mạnh vấn đề
phân phối và công bằng xã hội.
- Nâng cao tính thực tiễn của hệ thống KHH. Kế hoạch chỉ
mang tính định hướng.
- Tăng cường chất lượng của hệ thống thông tin, số
liệu kinh tế, xã hội, môi trường.
- Tăng cường trao đổi, giao lưu giữa các nhà kinh tế,
nhà lập kế hoạch với các nhà quản lý, các nhà chính trị...
- Tăng cường sử dụng các công cụ hiện đại trong xây
dựng và điều hành thực hiện kế hoạch.
II-
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KHH TRONG NỀN KTTT ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA
1)
Sự khác nhau giữa nền KTTT tại các nước tư bản và nền KTTT định hướng XHCN ở
nước ta, dẫn tới vai trò quan trọng của công tác KHH ở nước ta:
(1) Cùng nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, nhưng:
- KTTT:
Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân đóng vai trò chủ đạo;
- KTTT
định hướng XHCN: Sở hữu nhà nước và kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
Văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX khảng định:
"KTTT định hướng XHCN ở nước ta có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó, KTNN giữ vai trò chủ đạo; doanh nghiệp nhà nước là nòng
cốt; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc". Vì khu vực nhà nước đóng vai trò chủ đạo nên KHH đóng vai trò rất
quan trọng.
(2) Đều có sự quản lý của Nhà nước, nhưng:
- Nhà nước TBCN chú trọng bảo vệ lợi ích của giai cấp
tư sản, trước hết là lợi ích của những tập đoàn tư bản lớn.
- Nhà nước XHCN là nhà nước do nhân dân lao động lập
ra, của dân, do dân và vì dân, có nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động
và của toàn thể nhân dân. Đảng ta đã chỉ rõ: "Mục đích của nền KTTT định
hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. Sử dụng cơ chế thị
trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của KTTT để kích
thích sản xuất, phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải
phóng sức sản xuất, thúc đẩy CNH, HĐH; phát triển nền kinh tế đúng định hướng
XHCN".
(3) Nguyên tắc phân phối:
- KTTT: Phân phối theo hướng ưu tiên quyền lợi lợi cho
người có vốn; do đó càng ngày càng bất công: Người giầu giàu hơn, người nghèo,
nghèo đi.
- KTTT định hướng XHCN: Phân phối chủ yếu theo lao
động. Đảng ta đã chỉ rõ: "KTTT định hướng XHCN ở nước ta thực hiện phân
phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối
theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông
qua phúc lợi xã hội".
2)
Lý do phải KHH trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta
(1) Vì sự thất bại của cơ chế thị trường với 5 khuyết
tật:
- Sản xuất mù quáng, gây ra các khủng hoảng thừa,
thiếu.
- Cạnh tranh dã man, cá lớn nuốt cá bé, dẫn đến phá
sản của nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và cần thiết cho xã hội, gây lãng
phí cho nền kinh tế, mất công bằng xã hội và thất nghiệp.
- Các doanh nghiệp không đầu tư vào các khu vực, ngành
có lợi nhuận ít, thời gian thu hồi vốn lâu hoặc không có lợi nhuận, thậm chí
thua lỗ nhưng xã hội lại rất cần. Hậu quả là cơ cấu kinh tế méo mó.
- Không có khả năng tự điều tiết để phát triển các
vùng kém lợi thế cạnh tranh và những vùng khó khăn khác, làm cho quá trình phát
triển mất cân đối.
- Dễ tạo ra tình trạng kinh doanh lừa đảo, làm hàng
giả, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền vì mục tiêu lợi nhuận chi phối mọi
hoạt động, các tệ nạn xã hội, huỷ hoại môi trường sinh thái...
(2) Đối với nước ta, nếu đi theo cơ chế KTTT thuần tuý
thì hoàn có có thể gặp phải 5 vấn đề kể trên đồng thời không bảo đảm được sự
khác nhau giữa nền KTTT tại các nước tư bản và nền KTTT định hướng XHCN ở nước
ta nêu ở trên.
Ngoài ra, chúng ta còn có một số khó khăn khác do đang
trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế và đang trong giai đoạn đầu phát
triển:
- Hệ thống thông tin trong tình trạng rất kém phát
triển. Nếu để cơ chế kinh tế thị trường hoàn toàn thì người sản xuất, kinh
doanh, tiêu dùng có thể quyết định sai do thông tin thiếu hoặc sai lệch. Như
vậy, chỉ một cơ chế KTTT thì không đảm bảo có sự phân bổ có hiệu quả các nguồn
lực.
- Tình trạng độc quyền vẫn còn khá phổ biến vì nền
kinh tế quốc dân còn quá bé và chưa có trao đổi đầu tư quốc tế và thương mại
rộng rãi trong khi khu vực kinh tế Nhà nước chiếm tỷ trọng rất cao. Một số
doanh nghiệp liên kết lại là hình thành ngay một thế độc quyền hợp pháp mà Nhà
nước chưa có luật để chống. Do vậy sẽ không có sự cạnh tranh thực sự bình đẳng.
- Không thống nhất giữa giá cả và giá trị đối với
nhiều dịch vụ xã hội. Tỷ giá chưa phản ánh đúng quan hệ cung – cầu ngoại tệ;
đồng tiền chưa có tính chuyển đổi nên việc chuyển giá quốc tế sang tiền Việt
chưa chính xác.
Tóm lại chúng ta chưa có một thị trường phát triển một
cách đầy đủ (vốn, lao động, đất đai, hàng hoá, chất xám, thông tin tri thức...).
Giá cả vẫn bị méo mó, chưa thực sự phản ánh đúng giá trị nên ảnh hưởng không
tốt tới hoạt động sản xuất, đầu tư và tiêu dùng. Do đó, cần tiếp tục có sự can
thiệp của Chính phủ thông qua kế hoạch hoá thì những nguồn lực khan hiếm của
đất nước mới có thể được phân bổ có hiệu quả hơn, mang tính dài hạn.
(3) Vì việc phân bổ các nguồn lực có hạn của những
nước nghèo:
- Để phát triển bền vững, cần đầu tư thành một chương
trình tổng thể có tính dài hạn và mang lại lợi ích toàn cục cho đất nước, tạo
ra hiệu quả kinh tế xã hội dài hạn. Cơ chế KTTT không làm được như vậy vì nó có
xu hướng khuyến khích, tạo ra các đầu tư ngắn hạn, nhìn lợi ích trước mắt.
- Các nước nghèo còn phải huy động một lượng lớn vốn
vay nước ngoài để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, gồm hạ tầng vật chất và hạ
tầng xã hội. Nguồn vốn này được tập trung vào tay chính phủ nên chính phủ phải
xây dựng các kế hoạch sử dụng nguồn vốn này một cách có lợi nhất.
(4) Vì những mục tiêu xã hội như xoá đói, giảm nghèo,
y tế, giáo dục, quốc phòng an ninh. Chúng ta tuy nghèo, nhưng nhờ công tác KHH
và những can thiệp chính sách phù hợp của chính phủ nên đã duy trì được những
thành tựu xã hội tốt được cả thế giới công nhận và đánh giá cao.
(5) Vì đòi hỏi của hội nhập kinh tế quốc tế:
- Cùng kết hợp, phối hợp với các kế hoạch và chương
trình phát triển của các nước khác để hỗ trợ nhau cùng phát triển, đảm bảo sự
phát triển hài hòa, ổn định, bền vững của cả khu vực và thế giới.
- Đối với thu hút viện trợ nước ngoài (ODA): Nếu nhà
tài trợ thấy nước ta có những kế hoạch phát triển hợp lý thì họ tin là tiền cho
vay sẽ được sử dụng có hiệu quả và sẵn sàng cho vay. Chính vì vậy, các nhà tài
trợ rất quan tâm, ủng hộ các kế hoạch phát triển của chúng ta
- Đối với thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI): Cũng tương tự như vậy.
3)
Tại sao phải kết hợp KHH với thị trường:
(1) Khẳng định vai trò quan trọng của Nhà nước và công
tác KHH:
- Kiến tạo và đảm bảo môi trường kinh doanh an toàn,
ổn định, thuận lợi và bình đằng cho tất cả các thành phần kinh tế;
- Thực thi chính sách kinh tế vĩ mô tích cực và hiệu
quả để phát triển kinh tế nhanh, bền vững và cải thiện đời sống nhân dân;
- Can thiệp vào thị trường, bổ sung thêm cho thị
trường, hướng dẫn thị trường phát triển theo định hướng tốt.
- Bảo đảm được sự khác nhau giữa nền KTTT tại các nước
tư bản và nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta như đã nêu ở trên.
(2) Nhà nước cũng có thể có những khuyết tật, điểm yếu
cần khắc phục:
- Tham vọng, quan liêu, chủ quan, duy ý chí nên làm
sai;
- Không nắm thực tế, hiểu sai, nên can thiệp sai, tạo
ra những lệch lạc trong thị trường.
(3) Phương thức kết hợp KHH với thị trường thông qua
nhiều kênh:
KTTT định hướng XHCN kết hợp KHH với thị trường bằng
hai kênh chủ yếu:
- Điều khiển trực tiếp thông qua công cụ kế hoạch hoá
(một số chỉ tiêu, biện pháp áp đặt trong trường hợp cần thiết; dùng ngân sách
của Nhà nước để đầu tư; dùng khu vực kinh tế Nhà nước để hướng dẫn...) và các
biện pháp hành chính (quy hoạch sử dụng đất, khung giá đất...)
- Điều tiết gián tiếp thông qua thị trường bằng các
chính sách, vận dụng các quan hệ trong thị trường để tác động đến hoạt động của
các doanh nghiệp thông qua sử dụng các công cụ đòn bẩy kinh tế để khuyến khích
hoặc gây áp lực buộc các doanh nghiệp phải phát triển theo định hướng trong kế
hoạch, hoặc trong khung khổ kế hoạch do Nhà nước vạch ra.
III-
MỘT SỐ THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG CÔNG TÁC KHH TRONG GIAI ĐOẠN CHUYỂN ĐỔI KINH
TẾ VỪA QUA
1)
Tiến triển của công tác kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân
- Giai đoạn 1979-1988: Giảm dần cơ chế kinh tế KHH tập
trung, mở rộng từng bước vai trò của KTTT.
- Giai đoạn 1989-1995: Gần như bỏ qua vai trò của công
tác KHH. Tăng cường rất mạnh vai trò của KTTT.
- Giai đoạn từ năm 1996-2004: Nhận thức trở lại vai
trò của công tác kế hoạch hoá; vai trò của công tác KHH tăng lên.
- Giai đoạn từ năm 2005 tới nay: Công tác KHH được đổi
mới và tăng cường mạnh mẽ, tập trung vào xây dựng các kế hoạch 5 năm và các
chính sách phát triển.
2)
Một số thành tựu đạt được trong lĩnh vực kế hoạch hoá đến những năm gần đây
(1) Đã đổi mới mạnh mẽ tư duy KHH :
- Nhà nước đã thực sự tập trung vào xây dựng khung khổ
pháp luật để mọi công dân, doanh nghiệp tự do hoạt động, kinh doanh theo pháp
luật. Tốc độ xây dựng khung khổ pháp luật ngày càng nhanh.
- Kế hoạch chủ yếu mang tính dự báo, giảm tính pháp
lệnh. KHH đã chuyển dần từ các kế hoạch pháp lệnh sang kế hoạch định hướng
thông qua việc nhà nước xây dựng các mục tiêu định hướng phát triển kinh tế, xã
hội, xây dựng và thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô; trên cơ sở những thông
tin định hướng này, các doanh nghiệp và toàn nền kinh tế triển khai các hoạt
động của mình căn cứ theo hiệu quả tính toán của kinh tế thị trường.
- Nội dung của KHH không chỉ khoanh trong phạm vi khu
vực kinh tế Nhà nước mà được mở rộng cho toàn bộ nền KTQD, manh tính hệ thống.
Hiện nay đã xuất hiện nhiều thành phần kinh tế khác với tỷ trọng, vai trò ngày
càng tăng trong tạo việc làm, sản xuất, giảm nghèo. KHH không chỉ tập trung vào
khu vực kinh tế mà mở rộng ra cả xã hội, môi trường, trong đó vai trò của KHH
xã hội, môi trường ngày càng quan trọng.
- Đặc biệt, để phù hợp với nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần và nâng cao chất lượng các kế hoạch, công tác kế hoạch hóa đã ngày
càng mang tính dân chủ và công khai hơn. KHH bước đầu đã có sự tham gia của
người dân.
- Đổi mới tư duy KHH theo hướng phân cấp theo nguyên
tắc những hoạt động gắn với quyền lợi của người dân phải do cấp chính quyền gần
dân nhất thực hiện. Chính quyền cấp trên chỉ thực hiện những nhiệm vụ có quy mô
lớn (cấp dưới không làm được) và những vấn đề có tính chất liên ngành, liên
vùng phức tạp.
- Kinh tế đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng quan
trọng trong tất cả các kế hoạch.
(2) Một số thành tựu cụ thể, nổi bật của công tác KHH
trong 20 thập kỷ đổi mới vừa qua là:
- Đã xây dựng được các chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 10 năm, đồng thời coi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm là
định hướng cơ bản của các quy hoạch và kế hoạch phát triển dài hạn.
- Đã tăng cường công tác quy hoạch phát triển ngành và
vùng tầm 10 năm, 20 năm.
- Đã chuyển dần trọng tâm từ xây dựng kế hoạch hàng
năm sang xây dựng kế hoạch 5 năm (kế hoạch hoá định hướng phát triển 5 năm).
- Tập trung xây dựng và thực hiện các dự án và chương
trình mục tiêu, coi đây là những điểm trọng tâm để thực hiện kế hoạch 5 năm.
- Đã đổi mới hệ thống chỉ tiêu kế hoạch; hệ thống chỉ
tiêu kế hoạch pháp lệnh đã được rút gọn đáng kể. Đã cơ bản bỏ hệ thống các chỉ
tiêu pháp lệnh về lượng, chỉ giữ lại một số mặt hàng cân đối lớn, hàng hóa quan
trọng nhất nhằm ổn định cung cầu và kinh tế vĩ mô, song tính chất pháp lệnh
không còn cao và có thể được điều chỉnh linh hoạt theo thị trường. Hệ thống chỉ
tiêu kế hoạch gồm cả ba mảng: kinh tế, xã hội và môi trường.
- Đã đổi mới căn bản quy trình lập kế hoạch. Hình thức
giao số kiểm tra được thay bằng việc cung cấp các thông tin cần thiết (trong và
ngoài nước) nhằm hướng dẫn các ngành, địa phương và các đơn vị cơ sở xây dựng
kế hoạch theo hướng mục tiêu chung của Nhà nước. Quy trình lập kế hoạch có thời
gian biểu, nội dung rõ ràng từ Trung ương đến cơ sở, đảm bảo quá trình KHH diễn
ra đúng tiến độ và đảm bảo nội dung cần thiết, có chất lượng.
- Đã đổi mới phương thức điều hành kế hoạch, không chỉ
thể hiện ở việc tăng cường tính kịp thời mà còn ở việc sử dụng các công cụ quản
lý kinh tế vĩ mô gián tiếp như lãi suất, tỷ giá, thuế suất, tiền tệ và các định
hướng đầu tư của Nhà nước.
- Trong điều hành kế hoạch, đã ngày càng chú trọng đến
công tác phân tích, dự báo ngắn, trung và dài hạn; từng bước ứng dụng các công
nghệ hiện đại để phân tích, dự báo và xây dựng các cân đối vĩ mô, các phương án
phát triển trong kế hoạch. Điều hành kế hoạch dựa trên xây dựng và thực hiện hệ
thống pháp luật. Bộ Kế hoạch và Đầu tư tăng cường giúp đỡ địa phương xây dựng
kế hoạch thông qua mở các lớp hướng dẫn nghiệp vụ, cử các đoàn công tác đến địa
phương trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ...
3)
Một số hạn chế trong công tác KHH nền KTQD nước ta hiện nay
- Cơ sở lý luận cho việc đổi mới công tác KHH còn chưa
rõ. Ví dụ nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta là gì và trong nền KTTT đó, vai
trò của Nhà nước, vai trò của kinh tế nhà nước là gì và đến đâu. Do nhận thức
chưa rõ nên phát sinh nhiều khó khăn khi triển khai. Cấp Trung ương muốn đổi
mới, cấp vi mô lại chưa muốn hoặc ngược lại. Nhiều nơi vẫn muốn duy trì khu vực
DNNN với tỷ trọng lớn....
- Phương pháp KHH còn đơn giản; công tác phân tích, dự
báo chưa được chú trọng..., dẫn tới các kế hoạch đề ra còn chưa phù hợp, kém
chính xác. Công tác thông tin và dự báo còn kém.
- Chất lượng các kế hoạch, quy hoạch chưa cao. Quy
hoạch chưa thực sự có tầm nhìn xa, đồng thời chưa phù hợp với cơ chế kinh tế
thị trường nên vai trò định hướng cho các doanh nghiệp còn yếu. Phối hợp quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội vùng lãnh thổ với quy hoạch phát
triển ngành còn yếu. Vẫn xảy ra tình trạng cục bộ, khép kín trong các quy hoạch.
- Việc phối hợp và điều hành kế hoạch còn chưa tốt, hệ
thống kế hoạch theo ngành, vùng và địa phương vẫn chưa liên kết và phối hợp
chặt chẽ với nhau để trở thành một hệ thống kế hoạch KTQD tổng thể. Phân cấp
giữa trung ương và địa phương, sự phân công giữa các ngành với nhau... còn chưa
rõ ràng.
- Cơ chế điều hành kế hoạch còn nhiều bất cập. Rất
nhiều quyết định kinh tế lẽ ra nên thực hiện ở địa phương, doanh nghiệp... thì
vẫn được tập trung vào Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan tổng
hợp. Chưa tách bạch các chức năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh cho
các cơ quan, doanh nghiệp. Cơ chế điều hành thay đổi thường xuyên, đột ngột làm
nhiều doanh nghiệp từ chỗ làm ăn có lãi chuyển sang thua lỗ và ngược lại.
- Bộ máy tổ chức và trình độ cán bộ vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu.
IV)
NHỮNG NGUYÊN TẮC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐỔI MỚI CÔNG TÁC KHH NỀN KTQD Ở NƯỚC TA
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1)
Đổi mới công tác KHH nền KTQD nước ta sẽ tiếp tục được triển khai theo các nguyên
tắc sau:
(1) Khẳng định và xác định rõ vai trò quản lý của nhà
nước trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta. Xây dựng Luật Quy hoạch và Kế
hoạch hóa trong đó khẳng định Nhà nước sẽ tiếp tục định hướng phát triển bằng
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển; thiết lập môi trường pháp lý,
thương mại, đầu tư, tài chính thuận lợi, cởi mở và công bằng, bình đẳng cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế; điều tiết sự phát
triển bằng những cơ chế, chính sách thích hợp để khuyến khích thực hiện các mục
tiêu định hướng và đảm bảo công bằng xã hội, phát triển bền vững; giám sát và
kiểm tra việc thực thi pháp luật về kinh tế.
(2) Khảng định vai trò của công tác KHH trong nền KTTT
có sự quản lý của Nhà nước: Chính phủ chỉ có thể thực hiện chức năng quản lý
kinh tế của mình thông qua công cụ kế hoạch; kế hoạch cung cấp các thông tin có
tác dụng giúp các doanh nghiệp xây dựng phương hướng phát triển; kế hoạch có
tác dụng làm giảm những méo mó, lệch lạc của cơ chế KTTT, làm cho thị trường
phát huy những tác dụng lành mạnh của nó.
(3) Đề cao hơn nữa vai trò của các quan hệ kinh tế đối
ngoại trong công tác KHH.
(4) Đảm bảo sự tương quan giữa phát triển kinh tế,
tiến bộ và công bằng xã hội. Tăng cường công tác giáo dục, đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực; phát triển và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ; tăng
cường bảo vệ môi trường.
(5) Kết hợp một cách khoa học KHH theo ngành và KHH
theo địa phương và vùng lãnh thổ.
2)
Những nội dung cơ bản nhằm tiếp tục đổi mới công tác KHH
Các Đại hội IX, X của Đảng đã xác định những nội dung
cơ bản nhằm tiếp tục đổi mới công tác KHH gồm:
(1) Tiếp tục giải quyết tốt mối quan hệ đồng bộ giữa
chiến lược, quy hoạch và kế hoạch; phân cấp cụ thể và rõ ràng giữa các ngành,
các cấp trong quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch.
(2) Nâng cao chất lượng công tác xây dựng và quy hoạch
phát triển KT-XH nhằm huy động sức mạnh của toàn bộ xã hội, của mọi thành phần
kinh tế cho yêu cầu phát triển.
(3) Nâng cao chất lượng các dự báo khả năng, xu hướng
phát triển, chất lượng các cân đối lớn… làm cơ sở cho việc đề ra các mục tiêu
kinh tế. Sử dụng những công cụ mô hình phân tích và dự báo trong việc lập và
điều hành kế hoạch; củng cố và phát triển hệ thống thông tin phục vụ công tác
xây dựng và điều hành kế hoạch.
(4) Nâng cao chất lượng xây dựng, thẩm định các dự án
đầu tư phát triển, trước hết là các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
kinh tế, xã hội có quy mô lớn. Chú trọng công tác giám sát, đánh giá thực hiện
kế hoạch.
(5) Xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách và
giải pháp để dẫn dắt, điều hành nền kinh tế theo định hướng kế hoạch; tăng
cường năng lực xử lý kịp thời những mất cân đối và những phát sinh trong quá
trình thực hiện kế hoạch.
(6) Lấy ý kiến rộng rãi của các đối tượng xã hội, các
tầng lớp dân cư về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và thu hút họ tham gia
vào quá trình giám sát, đánh giá thực hiện kế hoạch. Các kế hoạch được xây dựng
theo hướng công khai, mở rộng các đối tượng tham gia, đóng góp ý kiến cho kế
hoạch.
CHƯƠNG
2
QUY TRÌNH XÂY DỰNG KẾ HOẠCH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI HÀNG NĂM
I.
QUY TRÌNH XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI HÀNG NĂM
1) Chỉ thị của Thủ tướng
chính phủ:
Quy
trình xây dựng kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội đến nay vẫn được xây dựng căn cứ vào Chỉ thị số ... ngày 23
tháng 9/1998 của
Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
thời kỳ đến năm 2010. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ đã đề ra ba điểm
lớn:
Một
là, toàn bộ quy trình kế
hoạch hoá nền kinh tế quốc dân bao gồm 3 khâu nối tiếp nhau là Chiến lược, Quy
hoạch và Kế hoạch, trong đó:
(1) Chiến lược có tầm dài hạn, thường từ 10 đến 20
năm, trước hết là tập trung xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
giai đoạn 2001-2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Thủ tướng Chính phủ giao Viện Chiến
lược Phát triển thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm chủ trì xây dựng
các chiến lược phát triển.
(2) Quy hoạch cùng thường có tầm dài hạn từ 10 năm trở
lên, trước hết tập trung xây dựng các quy hoạch phát triển cho giai đoạn
2001-2010. Viện Chiến lược Phát triển được Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ chủ trì xây
dựng các quy hoạch phát triển quốc gia.
(3) Kế hoạch 5 năm, trước hết là kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 2001-2005. Việc xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm được Thủ
tướng Chính phủ giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì thực hiện. Bộ Kế
hoạch và Đầu tư lại giao cho Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân chủ trì, phối hợp với
các đơn vị trong Bộ tổ chức thực hiện.
(4) Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm.
Việc xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm được Thủ tướng Chính
phủ giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì thực hiện. Bộ Kế hoạch và Đầu
tư lại giao cho Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân chủ trì, phối hợp với các đơn vị trong
Bộ tổ chức thực hiện.
Cũng theo Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, quy trình kế
hoạch hoá phát triển kinh tế quốc dân đi từ chiến lược đến quy hoạch rồi cụ thể
hoá bằng các kế hoạch 5 năm và hàng năm, trong đó Quy hoạch phải căn cứ vào
chiến lược, là cụ thể hoá của chiến lược và Kế hoạch phải căn cứ vào quy hoạch,
là cụ thể hoá của quy hoạch.
Hai
là, kế hoạch tổng thể
phát triển kinh tế quốc dân phải được làm trước; tất cả các kế hoạch chi tiết
khác như kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản, kế hoạch sản xuất ngành, vùng, kế
hoạch của các bộ, ngành, địa phương..., phải được xây dựng sau và căn cứ vào kế
hoạch tổng thể.
Ba
là, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
làm đầu mối chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, tổ chức xây dựng và thực hiện các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch. Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm
kiểm tra, giám sát và tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện chiến lược, quy
hoạch và kế hoạch. Trên cơ sở các kế hoạch, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với
Bộ Tài chính bố trí vốn hàng năm để thực hiện kế hoạch.
Đến
kế hoạch 5 năm 2006-2010,
ngày 23 tháng 9 năm 2004, Thủ tướng chính phủ đã có chỉ thị số 33/2004/CT-TTg
về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010 với những yêu
cầu về đổi mới quy trình, nội dung và phương pháp xây dựng kế hoạch nhằm nâng
cao chất lượng kế hoạch.
Tuy vậy, về phân công triển khai thực hiện, vẫn theo
phân công trên.
Đối
với kế hoạch hàng năm:
vào tháng 5 hàng năm, Thủ tướng Chính phủ đều ban hành Chỉ thị của Thủ tướng
Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân
sách nhà nước cho năm tới, trong đó định hướng những nội dung chính của kế
hoạch năm tới, gồm mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội và dự toán
ngân sách nhà nước cho năm tới, tiến độ xây dựng kế hoạch và phân công thực
hiện.
Như vậy, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hàng năm
nằm trong một tổng thể thống nhất của hệ thống kế hoạch phát triển, bao gồm:
(i) Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội; (ii) Quy hoạch phát triển; (iii) Kế
hoạch định hướng 5 năm; (iv) Kế hoạch hàng năm; (v) Điều hành, giám sát thực
hiện kế hoạch.
2) Quy trình xây dựng kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm
Như vậy, theo Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội hàng năm là cụ thể hoá của kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội 5 năm, do đó kế hoạch hàng năm phải lấy định hướng của kế hoạch 5 năm
làm cơ sở.
Quy trình kế hoạch hóa hàng năm được thực hiện qua 5
giai đoạn:
Giai
đoạn 1: Đánh giá tình hình
thực hiện kế hoạch năm hiện tại, dự báo mục tiêu phát triển và một số chỉ tiêu,
chính sách phát triển cho năm tới... Đây là giai đoạn xây dựng khung kế hoạch
năm. Ví dụ, để chuẩn bị cho việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
năm 2008, trong tháng 5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã:
(1) Dự thảo, trình Thủ tướng Chính phủ Chỉ thị của Thủ
tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự
toán ngân sách nhà nước cho năm tới;
(2) Tổ chức xây dựng khung kế hoạch năm, bắt đầu bằng
đánh giá khả năng thực hiện kế hoạch năm 2007.
Giai
đoạn 2: Các bộ, ngành, địa
phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty xây dựng kế hoạch.
Giai
đoạn 3: Bộ Kế hoạch và Đầu
tư xây dựng và tổng hợp kế hoạch, ví dụ từ tháng 6/2007 đã tổ chức xây dựng và
tổng hợp kế hoạch năm 2008, biên soạn báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, trình Chính phủ, Quốc hội.
Giai
đoạn 4: Giao kế hoạch năm
Giai
đoạn 5: Theo dõi quá trình
giao và triển khai thực hiện kế hoạch
Về mặt kỹ thuật, có thể phân chia nội dung cụ thể của
các giai đoạn xây dựng kế hoạch hàng năm như sau:
2.1) Giai đoạn 1: Xây dựng khung kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội năm
a) Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch năm hiện tại:
Mục tiêu chủ yếu của bước này là dự báo, đánh giá tình
hình (khả năng) thực hiện các mục tiêu và các chỉ tiêu của kế hoạch đề ra cho
năm trước, trong đó phải làm rõ những việc đã làm được và những việc chưa làm
được, tìm ra những nguyên nhân thành công và thất bại... Ở tầm kinh tế vĩ mô,
cần phải phân tích tình hình phát triển các ngành và lĩnh vực chủ yếu, phân
tích các mối quan hệ liên ngành, liên lĩnh vực để chỉ ra những nguyên nhân sâu
xa, cơ bản và là nguồn gốc chủ yếu của thành công và thất bại. Ở cấp các ngành,
các địa phương, cần đánh giá kỹ những thành tựu đã đạt được, nhất là những cơ
sở vật chất kỹ thuật tăng thêm do thực hiện các chương trình đầu tư, trong đó
chú trọng xem xét đánh giá kết quả và hiệu quả của các chương trình đầu tư công
cộng. Đánh giá không chỉ khoanh trong các nội dung kinh tế mà phải bao gồm cả
các nội dung xã hội, môi trường...
Một số nội dung chính cần phân tích, đánh giá là:
(1) Khái quát về bối cảnh thực hiện kế hoạch, nhất là
tình hình trong nước và quốc tế có diễn ra như dự kiến không; những biến động
của tình hình quốc tế, giá cả trên thị trường thế giới, thiên tai phát sinh
ngoài dự kiến đã ảnh hưởng như thế nào tới tăng trưởng kinh tế và thực hiện các
mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong kế hoạch năm.
(2) Đánh giá khả năng thực hiện các mục tiêu ổn định
và phát triển kinh tế, xã hội, gồm đánh giá khái quát việc thực hiện các mục
tiêu chính như tăng trưởng cao, bền vững và có hiệu quả; ổn định vững chắc kinh
tế vĩ mô; đảm bảo thực hiện mục tiêu thu ngân sách...; đánh giá cụ thể hơn tình
hình phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường...
(3) Đánh giá khả năng thực hiện các chủ trương, chính
sách kinh tế lớn đã đề ra trong kế hoạch, gồm khả năng phát triển các ngành
nghề, chuyển đổi cơ cấu kinh tế; khả năng phát triển kinh tế đối ngoại, nhất là
xuất khẩu; khả năng huy động các nguồn vốn vào đầu tư phát triển; khả năng thực
hiện những cân đối lớn; khả năng phát triển những lĩnh vực xã hội, nhất là công
tác xoá đói giảm nghèo, bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên môi trường...
(4) Đánh giá công tác chỉ đạo, điều hành thực hiện kế
hoạch của Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương và địa phương.
(5) Đánh giá khái quát lại toàn bộ thực trạng kinh tế,
xã hội của đất nước, vùng, địa phương sau 1 năm thực hiện kế hoạch, trong đó
nhấn mạnh các thành tựu và các yếu điểm lớn để rút ra bài học cho giai đoạn kế
hoạch hoá phát triển năm sau; đánh giá vị thế của đất nước so với các nước
trong khu vực và thế giới...
b) Xây dựng khung kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
năm
Trên tầm vĩ mô, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xác định các chỉ
tiêu tổng hợp phát triển kinh tế xã hội cho năm sau trên cơ sở đánh giá tình
hình thực hiện kế hoạch năm trước và những dự báo mang tính liên ngành có xét
đến những điều kiện phát triển của các ngành, các lĩnh vực, các vùng lãnh thổ
trong năm kế hoạch.
Nhìn chung, số liệu tính toán trong bước này là số
liệu dự báo. Các dự báo có thể được thực hiện theo nhiều phương pháp, trong đó
có hai phương pháp cơ bản là:
- Dự
báo theo phương pháp chuyên gia. Phương pháp này chủ yếu được áp dụng khi dự
báo các chỉ tiêu cấp ngành (kinh tế, xã hội, môi trường),
- Dự
báo theo phương pháp sử dụng các mô hình toán kinh tế. Phương pháp này chủ yếu
được áp dụng khi dự báo các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô.
Ở
bước này, ít nhất cũng sẽ phải xác định được một số chỉ tiêu cơ bản sau:
-
Xác định tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) toàn nền kinh tế nói
chung và GDP từng ngành nói riêng. Xác định GDP của năm kế hoạch theo giá so
sánh và giá hiện hành, trong đó có dự báo cụ thể giá trị gia tăng của các ngành
công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Xác định cơ cấu GDP theo ngành theo giá hiện
hành.
-
Xác định các cân đối lớn của nền kinh tế, gồm cân đối tích luỹ - tiêu dùng, cân
đối thu - chi ngân sách nhà nước, cân đối xuất - nhập khẩu, cân đối cán cân
thanh toán quốc tế, cân đối vốn đầu tư xây dựng cơ bản, cân đối cung - cầu một
số sản phẩm chính.
-
Xác định một số mục tiêu về xã hội, môi trường như giảm tốc độ tăng trưởng dân
số, khả năng tạo thêm việc làm, phát triển sự nghiệp y tế, giáo dục, đổi mới
công nghệ và bảo vệ môi trường để đảm bảo duy trì khả năng phát triển bền vững.
Trong
tính toán cân đối hạch toán quốc gia của kế hoạch hàng năm, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư đã đi theo đồng thời hai cách tiếp cận: Tiếp cận cầu và tiếp cận cung.
(1)
Cân đối hạch
toán quốc gia theo cách tiếp cận cầu:
khâu đầu tiên là dự kiến các khả năng tăng trưởng tiêu dùng bình quân đầu người
và dự báo khả năng tăng trưởng dân số để xác định quy mô dân số bình quân, để
trên cơ sở đó dự báo tốc độ tăng trưởng và giá trị tuyệt đối của quỹ tiêu dùng
của dân cư.
Trong
khâu thứ hai, căn cứ vào dự báo tiến triển của cơ cấu giữa tích luỹ và tiêu
dùng, và từ quỹ tiêu dùng đã xác định ở khâu trên, sẽ ước tính được quỹ tích
luỹ và tổng nhu cầu tích luỹ, tiêu dùng cho kế hoạch năm tới; chỉ tiêu này được
gọi là tổng nhu cầu nội địa.
Trong
khâu thứ ba, sẽ dự báo khả năng thay đổi cơ cấu giữa nhu cầu nội địa, gồm quỹ
tích luỹ và quỹ tiêu dùng, với nhu cầu từ bên ngoài, thể hiện bằng chỉ tiêu
chênh lệch xuất - nhập khẩu. Từ cơ cấu này và nhu cầu nội địa tính ở khâu 2, sẽ
xác định được tổng sản phẩm trong nước (GDP) toàn nền kinh tế theo công thức:
GDP = Tích luỹ + Tiêu dùng + Chênh
lệch xuất nhập khẩu (1)
Từ
giá trị GDP xác định ở trên, sẽ tính được tốc độ tăng trưởng GDP năm tới.
Khâu
cuối cùng trong tính toán cân đối hạch toán quốc gia theo tiếp cận cầu là tính toán phân tích hiệu quả sử dụng vốn
đầu tư. Từ tổng quỹ tích luỹ tính được trong bước 2, căn cứ vào dự báo thay đổi
cơ cấu giữa tích luỹ tài sản cố định và tích luỹ tài sản lưu động, sẽ ước tính
được giá trị tích luỹ tài sản cố định hàng năm và tổng nhu cầu vốn đầu tư toàn
xã hội. Từ đây, tính được hệ số vốn - sản phẩm (ICOR) để phân tích thay đổi
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (trong tính toán cân đối của kế hoạch 5 năm).
(2)
Cân đối hạch
toán quốc gia theo cách tiếp cận cung: ở
khâu thứ nhất, cần xác định khả năng tăng trưởng các sản phẩm và khu vực chính
trong ba ngành kinh tế tổng hợp là công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Trong
khâu thứ hai, sẽ dự báo tốc độ phát triển của ba ngành này và tổng hợp lại
thành phương án tăng trưởng tổng sản phẩm chung toàn nền kinh tế (GDP). Điểm
đặc biệt trong cách tiếp cận cung là không dự kiến thay đổi cơ cấu kinh tế mà
xác định thay đổi cơ cấu kinh tế trực tiếp từ dự báo khả năng phát triển sản
xuất từng ngành, từng loại sản phẩm chính.
Khâu
thứ ba là dự báo tổng hợp nhu cầu vốn cho phát triển các sản phẩm và các ngành
kinh tế, sau đó so sánh với giá trị ICOR dự báo cho ngành để cân đối lại nhu
cầu vốn. Cũng trong khâu này, sẽ ước tính tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội,
trong đó chia ra nguồn vốn từ ngân sách, nguồn vốn tín dụng nhà nước, vốn doanh
nghiệp nhà nước, vốn của các doanh nghiệp tư nhân và dân cư trong nước và vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài. Dự báo cung và cầu, vận động và giải ngân vốn ODA
và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng được thực hiện trong khâu này.
(3) Cân đối chung các kết quả thu được
từ hai cách tiếp cận cung và cầu:
Sau
khi xây dựng các phương án phát triển theo hai tiếp cận cung và cầu, cần phải
lựa chọn phương án đảm bảo sự khớp nhau theo hai cách tiếp cận. Chính trong
bước này, sẽ chọn được phương án phát triển có tốc độ tăng trưởng GDP hợp lý
nhất, đảm bảo được tính phát triển bền vững, cân đối giữa cung và cầu theo hai
cách tiếp cận, đồng thời cũng đáp ứng được các nhu cầu cải thiện điều kiện
sống, giảm thất nghiệp và ổn định cán cân thanh toán quốc tế. Phương án này được gọi là phương án cơ bản.
Trong thực tế, khi so sánh các phương án phát triển
theo hai tiếp cận cung và cầu, thường xảy ra trường hợp không khớp nhau, ví dụ
phương án xây dựng theo tiếp cận cung cho tốc độ tăng trưởng GDP là 7,5% trong
khi phương án xây dựng theo tiếp cận cầu cho tốc độ tăng trưởng GDP là 8%. Khi
đó, tại các nước đang phát triển, người ta thường nghiêng về chọn phương án
phát triển theo tiếp cận cung.
Điều này cũng rất hợp lý trong trường hợp ở nước ta,
vì tăng trưởng sản xuất thường khó hơn nhiều so với tăng trưởng tiêu dùng nên
khi xây dựng phương án thấp, cần lấy cung làm gốc để điều chỉnh tiêu dùng; tức
là khi so sánh các kết quả thu được từ hai cách tiếp cận cung và cầu, kết quả
thu được từ cách tiếp cận cung được coi là phù hợp hơn, đáng tin cậy hơn vì độ
chắc chắn khi thực hiện cao hơn. Nếu chọn phương án tăng trưởng tính từ tiếp
cận cung, với giả định khả năng tăng trưởng của các ngành thấp hơn so với
phương án tính từ tiếp cận cầu, sẽ phải tiến hành điều chỉnh lại các chỉ tiêu
tích luỹ, tiêu dùng... trong cân đối kinh tế vĩ mô cho phù hợp với phương án
này.
Ngoài ra, trong xây dựng các phương án kế hoạch phát
triển, thường phải có phương án dự phòng để chủ động đối phó với các tình huống
thuận hoặc không thuận có thể xảy ra. Mặt khác, mặc dù có thể đề ra 2 phương án
dự phòng chủ yếu là phương án tăng trưởng cao và phương án tăng trưởng thấp so
với phương án cơ bản, song trên thực tế khi xây dựng kế hoạch, tuỳ theo dự báo
biến động môi trường theo hướng tích cực hay bất lợi có nhiều khả năng xảy ra
hơn mà ưu tiên chọn phương án tăng trưởng cao hay thấp làm phương án dự phòng.
(4)
Tính toán các cân đối khác
Sau giai đoạn dự báo khả năng tăng trưởng GDP, tốc độ
phát triển của các ngành và các cân đối lớn trong khuôn khổ cân đối hạch toán
quốc gia trong đó có dự báo cân đối vốn đầu tư, sẽ chuyển sang thực hiện
các dự báo các cân đối cụ thể hơn gồm cân đối xuất - nhập khẩu, cân đối thu -
chi ngân sách, cân đối cung - cầu tiền tệ, cân đối vay và trả nợ nước ngoài...
- Về
cân đối ngân sách nhà nước: dự
báo nguồn thu ngân sách nhà nước chủ yếu căn cứ vào dự báo tỷ lệ huy động thuế
và phí trên GDP trong khi tỷ lệ này được dự báo căn cứ vào khả năng tăng trưởng
kinh tế, khả năng biến động giá cả và chính sách thu ngân sách sẽ áp dụng.
Trong các tính toán chi tiết, có thể dự báo thu ngân sách theo các bộ phận cấu
thành chính như thu nội địa (thu từ khu vực DNNN, thu từ khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài, thu ngoài quốc doanh...), thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu
và thu từ dầu thô.
Dự báo nguồn chi ngân sách nhà nước căn cứ vào nhu cầu
chi ngân sách cho đầu tư phát triển đã xác định trong bước xác định nguồn vốn
đầu tư, và hai thành phần khác là nhu cầu chi thường xuyên (trong đó thành phần
chính là chi tiền lương) và chi trả nợ - viện trợ. Chi thường xuyên được xác
định căn cứ vào nhu cầu chi các khoản lớn và khả năng cân đối thu - chi ngân
sách (tức là mức bội chi ngân sách dự kiến). Chi trả nợ - viện trợ được tính
toán căn cứ vào tình hình nợ tồn đọng, tiến độ trả nợ và yêu cầu viện trợ.
Trong những năm gần đây, bội chi ngân sách thường được
xác định trước (khoảng 5% GDP) nên tổng chi ngân sách được xác định bằng tổng
của thu ngân sách và bội chi ngân sách. Bội chi ngân sách được bù đắp bằng hai
nguồn chính: vay trong nước (thông qua phát hành trái phiếu chính phủ) và vay
nước ngoài.
- Về xuất nhập
khẩu và cán cân thanh toán quốc tế: Dự báo tổng giá trị xuất khẩu được xây
dựng căn cứ vào dự báo khả năng xuất khẩu các sản phẩm chính trong khi khả năng
xuất khẩu các sản phẩm này được dự báo căn cứ vào dự báo phát triển sản xuất
các sản phẩm dùng để xuất khẩu đã thực hiện theo cách tiếp cận cung và dự báo
nhu cầu của thị trường quốc tế. Ngoài dự báo căn cứ vào khả năng xuất khẩu các
sản phẩm chính, trong giai đoạn xây dựng khung kế hoạch, có thể dự báo theo xu
thế, dựa trên mô hình kinh tế lượng vĩ mô, trong đó tổng kim ngạch xuất khẩu
năm tới được xác định căn cứ vào tăng trưởng kinh tế trong nước, biến động giá
cả trong nước và quốc tế, biến động tỷ giá và tăng trưởng kinh tế của các nước
bạn hàng và đối tác chính.
Tương tự như đối với xuất khẩu, dự báo giá trị nhập
khẩu được thực hiện căn cứ vào nhu cầu nhập từng loại hàng hoá phục vụ các
phương án phát triển đề ra. Mặt khác, ngoài dự báo căn cứ vào nhu cầu khẩu các
sản phẩm chính, trong giai đoạn xây dựng khung kế hoạch, có thể dự báo theo xu
thế, dựa trên mô hình kinh tế lượng vĩ mô, trong đó tổng kim ngạch nhập khẩu
năm tới được xác định căn cứ vào tăng trưởng kinh tế trong nước (cầu nội địa),
biến động giá cả trong nước và quốc tế, biến động tỷ giá (quan hệ cạnh tranh về
giá giữa sử dụng hàng trong nước hay hàng nhập khẩu).
Chênh lệch xuất nhập khẩu hàng hoá được đưa vào cân
đối:
+ Cân đối hạch toán quốc gia trong phương trình cân
bằng tổng quát (1) nêu trên, trong đó chênh lệch xuất nhập khẩu hàng hoá được
bổ sung thêm chênh lệch xuất nhập khẩu dịch vụ để tạo ra chênh lệch xuất nhập
khẩu trong phương trình cân bằng tổng quát (1).
+ Cân đối cán cân thanh toán quốc tế, trong đó chênh
lệch xuất nhập khẩu (thống nhất tính theo giá FOB) là một thành phần của cán
cân thanh toán vãng lai. Trong tính toán cân đối cán cân thanh toán quốc tế, sẽ
đưa vào các chỉ tiêu như chuyển thu nhập bằng tiền từ trong nước ra nước ngoài,
giải ngân vốn ODA, FDI và các nguồn vốn khác... để xác định cân bằng cán cân
thanh toán quốc tế tổng thể. Từ cân bằng tổng thể, sẽ xác định được cân đối nợ
nước ngoài, vay và trả nợ nước ngoài cũng như dự trữ quốc tế.
(5)
Xây dựng khung kế hoạch năm
Sau khi hoàn thành việc tính toán các cân đối vĩ mô
của nền kinh tế, sẽ chuyển sang xây dựng khung kế hoạch năm chi tiết. Nội dung
chi tiết của khung kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội sẽ được trình bày trong
chương sau. Tuy nhiên, nói một cách khái quát, khung kế hoạch là dự thảo thô,
ban đầu của kế hoạch năm, do Trung ương xây dựng dựa trên các thông tin của
Trung ương có, nhằm đưa ra bức tranh khái quát về phương hướng, mục tiêu, nhiệm
vụ của kế hoạch năm tới sao cho có thể góp phần đạt được mục tiêu tổng quát,
những mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu, những cân đối cơ bản và những định hướng
phát triển các ngành, lĩnh vực và vùng kinh tế đề ra trong kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm đã được Đảng và Quốc hội thông qua.
Nhiệm vụ xây dựng khung kế hoạch được Chính phủ giao
cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức thực hiện. Để thực hiện nhiệm vụ này, các đơn
vị trong Bộ Kế hoạch và Đầu tư theo chức năng, nhiệm vụ của mình và căn cứ vào
các chỉ tiêu chủ yếu đã được đề ra trong các bước trên, sẽ nghiên cứu, xây dựng
dự thảo thô về phương án phát triển các ngành, lĩnh vực và vùng kinh tế mà mình
phụ trách, gửi về Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân để tổng hợp thành khung kế hoạch
chung.
2.2) Giai đoạn 2: Các Bộ, ngành, địa phương xây dựng kế hoạch
Trong bước này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tổ chức Hội
nghị toàn ngành kế hoạch và đầu tư để thông báo cho các Bộ, ngành, Tập đoàn
kinh tế, Tổng công ty và các địa phương những thông tin về dự kiến kế hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội toàn quốc (khung kế hoạch năm), đồng thời
hướng dẫn các Bộ, ngành, tổng công ty và địa phương xây dựng kế hoạch. Tiếp đó,
các Bộ, ngành, Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty và địa phương trên cơ sở đánh giá
lại nguồn lực phát triển của mình, sẽ xây dựng kế hoạch phát triển của Bộ,
ngành, Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty và địa phương có kèm theo các bước thực
hiện cụ thể. Dự thảo kế hoạch của các Bộ, ngành, Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty
và địa phương được gửi về Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp thành kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, đồng thời được trình qua các cấp quản
lý (Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng nhân dân) để thông qua.
Nội dung khung kế hoạch năm báo cáo tại Hội nghị toàn
ngành kế hoạch và đầu tư thường bao gồm các thông tin chính sách:
- Đánh giá khả năng thực hiện kế hoạch năm trước;
- Phương hướng phát triển chung của nền
kinh tế - xã hội trong năm tới;
- Khả năng huy động và phương hướng sử
dụng các nguồn lực phát triển;
- Các chính sách có thể ban hành và đưa
vào áp dụng trong năm tới;
- Hướng dẫn các Bộ, ngành, các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương xây dựng kế hoạch, trong đó nêu rõ tiến độ thực hiện
- Phụ lục các biểu mẫu về sản xuất, đầu
tư, xã hội, môi trường... để các Bộ, ngành, tổng công ty và địa phương tính
toán và điền thông tin, gửi về Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với báo cáo dự thảo kế hoạch của các Bộ, ngành, tổng công ty và địa
phương.
Trong bước này, các bộ, ngành trung ương và tổng công
ty lớn với chức năng quản lý nhà nước của mình, có nhiệm vụ xây dựng quy hoạch
và kế hoạch phát triển toàn ngành, tổng hợp, xử lý và tối ưu hoá các phương án
kế hoạch xây dựng từ các tổng công ty, các công ty, các đơn vị sản xuất kinh
doanh khác.
Ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Ủy ban
nhân dân đứng đầu là chủ tịch tỉnh, thành phố, có nhiệm vụ tổ chức nghiên cứu
quy hoạch và kế hoạch phát triển của địa phương. Sở Kế hoạch và Đầu tư vừa là
ngành dọc của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vừa có nhiệm vụ tham mưu cho Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trong việc kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương mình. Các sở, ban ngành chuyên môn khác của tỉnh, thành phố với chức
năng của mình trên địa phương, sẽ tham gia xây dựng kế hoạch chi tiết cho lĩnh
vực chuyên môn của mình, có tham khảo ý kiến của các bộ, ngành dọc ở trung
ương.
Bản dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được tổng hợp từ các phương án kế hoạch
của các sở, ban, ngành và các quận, huyện xây dựng lên. Phương án kế hoạch tổng
hợp sẽ được gửi lên Bộ Kế hoạch và Đầu tư đồng thời báo cáo Thủ tướng Chính
phủ.
2.3) Giai đoạn 3: Xây dựng và tổng hợp kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm
Khâu
đầu tiên là chuẩn bị tổng hợp
kế hoạch. Sau khi các Bộ, ngành, tổng công ty, và các địa phương xây dựng xong
kế hoạch, các văn bản kế hoạch sẽ được gửi về Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Trên cơ sở
các kế hoạch này, các cục, vụ chuyên ngành chủ trì phối hợp với các vụ kế hoạch
của các Bộ, ngành, Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty 91, Vụ Kinh tế địa phương và
lãnh thổ chủ trì phối hợp với các Sở Kế hoạch và Đầu tư các tỉnh, thành phố...
để cùng nghiên cứu hoàn chỉnh dự thảo kế hoạch của các bộ, ngành, tổng công ty
91, các tỉnh, thành phố; chuẩn bị nội dung để lãnh đạo Bộ làm việc với các Bộ,
ngành, Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty 91, các tỉnh, thành phố.
Về cân đối vốn đầu tư: Trên cơ sở các thông tin dự
báo, Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân chủ trì cùng với các vụ Tài chính - Tiền tệ,
Kinh tế Đối ngoại và Cục Đầu tư nước ngoài tính toán nhu cầu và khả năng các
nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, dự kiến bố trí cơ cấu vốn đầu tư thuộc Ngân sách
nhà nước, cơ cấu tín dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước và xu hướng đầu tư
trong khu vực doanh nghiệp và dân cư. Thông báo tổng mức vốn đầu tư của các
ngành, lĩnh vực, địa phương cho các vụ chuyên ngành để các Vụ chuyên ngành làm
việc với các đầu mối kế hoạch.
Khâu
tiếp theo là tổng hợp và báo
cáo kế hoạch. Trên cơ sở làm việc với các đơn vị đầu mối kế hoạch của các bộ,
ngành, tổng công ty 91 và các địa phương, từng cục, vụ trong Bộ theo chức năng
của mình, chủ động tổng hợp và xây dựng kế hoạch năm của ngành, lĩnh vực, địa
phương, trong đó tập trung vào 3 vấn đề chủ yếu sau:
- Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch;
- Phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu và các chỉ tiêu chủ
yếu của kế hoạch;
- Đề xuất các biện pháp thúc đẩy thực hiện kế hoạch,
khả năng huy động các nguồn vốn, những kiến nghị bổ sung hoặc sửa đổi cơ chế,
chính sách.
Kế hoạch của các Cục, Vụ chuyên ngành được báo cáo với
lãnh đạo Bộ, đồng thời được gửi cho Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân. Vụ Tổng hợp
kinh tế quốc dân trên cơ sở kế hoạch ngành và lãnh thổ do các đơn vị trong Bộ
gửi tới, sẽ rà soát lại các chỉ tiêu, những cân đối chủ yếu và cơ cấu ngành,
lĩnh vực, tổng hợp, phân tích, lựa chọn các giải pháp tối ưu để hình thành kế
hoạch tổng thể phát triển nền kinh tế quốc dân và toàn xã hội. Tiếp đó, Vụ Tổng
hợp kinh tế quốc dân chủ trì hình thành dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội trình lãnh đạo Bộ thông qua và chuẩn bị để Bộ báo cáo cho các cơ quan
lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Ngoài báo cáo kế hoạch tổng thể, tuỳ theo yêu cầu,
Bộ sẽ phân công các đơn vị liên quan xây dựng một số báo cáo chuyên đề hoặc các
giải trình cần thiết.
2.4) Giai đoạn 4: Giao kế hoạch năm
Sau khi được Quốc hội thông qua, dự thảo kế hoạch năm
sẽ trở thành kế hoạch chính thức và sẽ được thông báo dưới hình thức giao kế
hoạch cho các Bộ, ngành, Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty 91 và các địa phương thực
hiện. Kế hoạch năm được giao theo trình tự sau:
- Chuẩn bị giao
kế hoạch: Các đơn vị chức năng trong Bộ chuẩn bị nội dung giao kế hoạch cho
các đơn vị đầu mối kế hoạch và trao đổi tài liệu cho nhau theo hệ thống chỉ
tiêu đã trình Thủ tướng Chính phủ; đồng thời theo dõi quá trình phân bổ chỉ
tiêu giữa các đơn vị liên quan để kịp thời điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp, đảm
bảo khi kế hoạch được Quốc hội thông qua là có thể giao ngay cho các đơn vị đầu
mối kế hoạch.
Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân chủ trì chuẩn xác lại hệ
thống các chỉ tiêu giao kế hoạch hàng năm, gồm chỉ tiêu do Thủ tướng Chính phủ
giao và chỉ tiêu do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư giao (xem danh mục các chỉ
tiêu trong phụ lục).
Các vụ chuyên ngành thống nhất với các vụ liên quan
chuẩn bị nội dung các biểu giao kế hoạch (gồm các chỉ tiêu và các thông tin
liên quan) cho các Bộ, ngành, tổng công ty 91, trình lãnh đạo Bộ và gửi về Vụ
Tổng hợp kinh tế quốc dân để tổng hợp.
Vụ Kinh tế địa phương và lãnh thổ chủ trì thống nhất
với các vụ liên quan hình thành tập chỉ tiêu giao kế hoạch cho các địa phương,
trình lãnh đạo Bộ và gửi về Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân.
Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân tổng hợp những vướng mắc
phát sinh trong quá trình chuẩn bị giao kế hoạch, báo cáo lãnh đạo Bộ xử lý.
- Giao kế hoạch:
Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân rà soát lại lần cuối các tập chỉ tiêu giao kế
hoạch đã được xử lý, báo cáo lãnh đạo Bộ để lãnh đạo Bộ trình Thủ tướng Chính
phủ xem xét, quyết định. Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân chủ trì dự thảo Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định của Bộ trưởng về giao kế hoạch.
Văn phòng Bộ phối hợp với Vụ Tổng hợp kinh tế quốc
dân, Vụ Kinh tế địa phương và lãnh thổ và các đơn vị liên quan chuẩn bị Hội
nghị phổ biến và giao kế hoạch.
2.5) Giai đoạn 5: Theo dõi quá trình giao và triển khai thực
hiện kế hoạch
Sau khi đã giao kế hoạch cho các đơn vị đầu mối kế
hoạch, các vụ chuyên ngành có trách nhiệm theo dõi sát quá trình triển khai
giao kế hoạch đến tận cơ sở. Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, các đơn
vị đầu mối kế hoạch (Bộ, ngành, tổng công ty, và các địa phương) phải giao xong
kế hoạch trong tháng 12 để các đơn vị trực thuộc có thể triển khai thực hiện kế
hoạch ngay từ đầu năm.
Khi theo dõi giao và triển khai thực hiện kế hoạch,
nếu phát hiện có những bất hợp lý hoặc sai sót, các đơn vị chức năng trong Bộ
cần kịp thời báo cáo Lãnh đạo Bộ để có công văn điều chỉnh. Việc theo dõi thực
hiện kế hoạch được phân theo quý, 6 tháng, 9 tháng và ước thực hiện cả năm. Vụ
Tổng hợp kinh tế quốc dân có trách nhiệm tổng hợp chung báo cáo lãnh đạo Bộ và
chuẩn bị để Bộ báo cáo Chính phủ.
Mặt khác, do yêu cầu của công tác điều hành thực hiện
kế hoạch trong cơ chế kinh tế thị trường, theo sự phân công của Thủ tướng Chính
phủ, các vụ có trách nhiệm thường xuyên liên hệ với các vụ thuộc Bộ, địa phương
liên quan và các tổng công ty lớn để chuẩn bị các báo cáo nhanh 2 tuần, 1 tháng
về một số lĩnh vực được phân công, gửi cho Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân để tổng
hợp, báo cáo kịp thời, đảm bảo có giải pháp xử lý.
Ngoài ra, Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân có trách nhiệm
xây dựng kế hoạch điều hành trong năm và cụ thể cho từng quý, trong đó xác định
rõ cơ chế điều hành, phân công phân cấp việc điều hành và theo dõi việc triển
khai kế hoạch; xây dựng các báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch hàng tháng,
hàng quý, dự báo tình hình quý sau và đề ra các giải pháp tháo gỡ khó khăn,
tiếp tục thực hiện tốt kế hoạch.
3)
Tiến độ và thời gian tổng hợp và giao kế hoạch năm
Căn cứ vào tiến độ thông qua kế hoạch ngân sách và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội được quy định trong Luật Ngân sách nhà nước,
tiến độ xây dựng và giao kế hoạch hàng năm được thực hiện như sau:
Từ tháng 4 hàng năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiến hành
các nội dung của bước 1 trong quy trình chung nêu ở trên, trong đó tập trung
vào việc xây dựng khung kế hoạch.
Vào đầu tháng 6 hàng năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xin ý
kiến chỉ đạo của Chính phủ về nội dung đề ra trong khung kế hoạch năm sau và tổ
chức hội nghị ngành để hướng dẫn xây dựng kế hoạch.
Từ đầu tháng 7 đến giữa tháng 8 hàng năm: các đơn vị đầu
mối kế hoạch xây dựng kế hoạch và gửi kế hoạch tới Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Trong
thời gian này, các đơn vị chức năng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư bố trí làm việc
trực tiếp với một số đơn vị đầu mối kế hoạch của các Bộ, ngành, tổng công ty 91
và các địa phương.
Từ giữa tháng 8 đến giữa tháng 9 hàng năm: Bộ Kế hoạch
và Đầu tư tổng hợp kế hoạch và tiếp tục làm việc với các đơn vị đầu mối kế
hoạch.
Từ giữa tháng 9 đến kỳ họp Quốc hội tháng 10: Bộ Kế
hoạch và Đầu tư hoàn chỉnh báo cáo trình các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước,
đồng thời bố trí chỉ tiêu kế hoạch giao cho các đơn vị đầu mối kế hoạch trình
cấp trên.
Trong tháng 11, Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Kế
hoạch và Đầu tư giao kế hoạch cho các đơn vị đầu mối kế hoạch.
Trong tháng 12, các đơn vị đầu mối kế hoạch giao kế
hoạch cho các đơn vị trực thuộc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét