QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG VÀ LẠM PHÁT
Lý thuyết và kinh nghiệm các nước đang phát triển châu Á[1]
b) Quan hệ giữa tăng trưởng nóng và lạm phát hay hiện
tượng lạm phát do tăng trưởng nhanh
Tăng
trưởng kinh tế nóng đã từng diễn ra phổ biến tại nhiều nước công nghiệp phát
triển từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai đến đầu thập kỷ 70 của
thế kỷ trước, sau đó tiếp tục xảy ra với tần xuất thấp hơn trong khoảng hai thập
kỷ gần đây. Tăng trưởng kinh tế nóng cũng đã diễn ra tại nhiều nước đang phát
triển ở châu Á trong gần nửa thế kỷ vừa qua. Đặc điểm chung là các quốc gia có
nền kinh tế tăng trưởng nóng đều gặp phải tình trạng tăng giá liên tục, dù
nhanh hay chậm, tức là lạm phát diễn ra thường xuyên.
Hai hiện
tượng tăng trưởng kinh tế nóng và lạm phát có mối quan hệ dương theo lập luận
của trường phái kinh tế Keynes. Theo trường phái này, tăng trưởng nóng có nguồn
gốc từ tăng cầu. Khi kích thích làm cầu tăng cao, các hoạt động kinh tế sẽ trở
nên sôi động hơn song nhiều phi cân bằng xuất hiện và ngày càng trầm trọng, đặt
nền kinh tế trước những giới hạn tăng trưởng trong khi tổng cầu tiếp tục tăng
lên. Lạm phát xảy ra do cầu hàng hóa và dịch vụ tăng lên vượt quá so với khả
năng của cung.
Tình trạng mất cân đối cung cầu này vừa dẫn tới làm cạn kiệt các đầu vào và nguồn ngoại tệ dự trữ để nhập khẩu, vừa tạo ra và nuôi dưỡng quá trình tăng giá không thể đảo ngược được đối với hầu hết các loại hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế. Tình hình sẽ càng nghiêm trọng nếu các phi cân bằng cán cân thanh toán quốc tế xuất hiện do luồng vốn nước ngoài đảo chiều, thay vì đưa vào thì lại tháo chạy ra nước ngoài... Như vậy, lạm phát là một trong những hậu quả của chính sách tăng trưởng kinh tế nóng.
Tình trạng mất cân đối cung cầu này vừa dẫn tới làm cạn kiệt các đầu vào và nguồn ngoại tệ dự trữ để nhập khẩu, vừa tạo ra và nuôi dưỡng quá trình tăng giá không thể đảo ngược được đối với hầu hết các loại hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế. Tình hình sẽ càng nghiêm trọng nếu các phi cân bằng cán cân thanh toán quốc tế xuất hiện do luồng vốn nước ngoài đảo chiều, thay vì đưa vào thì lại tháo chạy ra nước ngoài... Như vậy, lạm phát là một trong những hậu quả của chính sách tăng trưởng kinh tế nóng.
Một số
nhà kinh tế Keynes và hậu Keynes cho rằng tăng trưởng kinh tế nóng chỉ là hiện
tượng nhất thời và có thể giải quyết được thông qua các chính sách điều chỉnh
kinh tế. Khi hiện tượng tăng trưởng kinh tế nóng xuất hiện, có thể sử dụng các
chính sách tài chính, tiền tệ, ngoại thương... để hạ dần tốc độ tăng trưởng
kinh tế đồng thời kìm hãm quá trình tăng giá. Quá trình điều chỉnh kinh tế được
thực hiện từng bước sẽ cho phép ổn định tốc độ tăng trưởng kinh tế và đưa tốc
độ lạm phát về mức hợp lý.
Thực tiễn
đã cho thấy nhiều nền kinh tế, nhất là nhiều nền kinh tế trong khu vực Đông á,
đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế
ngày càng cao trong khi tỷ lệ lạm phát thường xuyên khá thấp và ổn định. Đây
cũng là hiện tượng đã xảy ra ở nước ta trong hơn một thập kỷ vừa qua. Vì thế,
nếu như trong các nghiên cứu trước, người ta thường tập trung phân tích ảnh
hưởng của lạm phát tới tăng trưởng, đồng thời biến tăng trưởng kinh tế không
tham gia vào phương trình xác định lạm phát, thì trong nghiên cứu này, chúng
tôi lại tiếp cận theo chiều ngược lại để phân tích ảnh hưởng của quá trình tăng
trưởng kinh tế (nhanh hoặc nóng) tới sự ổn định của mặt bằng giá chung.
2) Các
phương pháp và mô hình phân tích quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát
Có nhiều
phương pháp phân tích ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế tới lạm phát hoặc quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát, trong đó ba phương pháp thông dụng
nhất là: (i) Sử dụng quan hệ tương quan trực tiếp giữa hai biến; (ii) Phân tích
nhân quả theo tiếp cận Granger; (iii) Sử dụng các mô hình hồi quy bội. Do khuôn
khổ giới hạn của bài viết, dưới đây xin trình bày kết quả nghiên cứu theo các
phương pháp (i) và (iii).
a) Sử dụng các hàm hồi quy trực tiếp giữa hai biến
tăng trưởng và lạm phát:
Đây là
phương pháp được sử dụng phổ biến nhất trong nghiên cứu quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và lạm phát. Mô hình truyền thống là phương trình hồi quy tuyến
tính trực tiếp giữa tỷ lệ lạm phát với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Về mặt toán
học, lạm phát được xác định như sau:
p = a *
g +
c + u (2)
trong đó
p là tỷ lệ lạm phát hàng năm; g là tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm; a và c là
các tham số cố định; u là biến sai số ngẫu nhiên.
Mô hình
này chỉ ra một quan hệ rất đơn giản và trực tiếp giữa tỷ lệ lạm phát và tốc độ
tăng trưởng kinh tế hàng năm. Theo kinh nghiệm quản lý kinh tế, chúng ta hy
vọng hệ số a dương; tức là sự tăng lên của tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ kéo
theo sự tăng lên của tỷ lệ lạm phát. Mô hình giả thiết hai biến đồng nhất ở cấp
0. Ngoài mô hình quan hệ trực tiếp này, người ta cũng có thể sử dụng các mô
hình khác như hồi quy quan hệ giữa các chỉ số giá và GDP, giữa biến động của tỷ
lệ lạm phát và biến động của tốc độ tăng trưởng kinh tế...
Cơ sở lý
thuyết của quan hệ này là đường cong Philip và luật Okun. Cụ thể, đường cong
Philip (hình 1) thiết lập một quan hệ âm giữa thất nghiệp và lạm phát để cung
cấp cho Chính phủ những lựa chọn chính sách khác nhau. Việc ưu tiên đấu tranh
chống thất nghiệp (điểm A) ngầm ẩn phải chấp nhận tỷ lệ lạm phát tăng lên;
ngược lại, tập trung chống lạm phát (điểm B) sẽ phải chấp nhận tỷ lệ thất
nghiệp leo thang...
Quan
hệ này được mô hình hoá bằng phương trình đơn giản sau :
p = f(u) (3)
Luật
Okin kết hợp những biến động của GDP (y) theo giá cố định xung quanh trục tăng
trưởng xu thế của nó (y*) với những biến động theo hướng ngược lại của tỷ lệ
thất nghiệp (u) xung quanh tỷ lệ cân bằng của nó (u*).
Hình 1: Đường cong Philip Hình 2: Luật Okun
Lạm
phát Thất
nghiệp
A
*
B
*
Thất nghiệp GDP theo xu thế
Quan hệ
này có thể được mô hình hoá như sau:
u -
u* = - g (y - y*) (4)
Luật Okin
cho rằng tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng lên trong pha suy thoái kinh tế và giảm
xuống trong pha tăng trưởng mở rộng. Kết hợp các mô hình (3) và (4), chúng ta
thu được quan hệ trực tiếp giữa tăng trưởng kinh tế (g) và lạm phát (p) như đã
trình bày ở mô hình (2). Burda M. et Wyplosz[1]
đã xây dựng đường quan hệ giữa tổng cung và lạm phát như sau (hình 3).
Hình
3: Tổng cung và lạm phát (%)
Lạm phát
Sản
xuất
b) Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát qua mô
hình hồi quy bội.
Để ngắn
gọn và thuận tiện, dưới đây chúng tôi sẽ tiếp cận phương pháp này bằng một mô
hình hỗn hợp, trong đó mô hình chứa đựng tất cả các nguyên nhân có thể của hiện
tượng lạm phát theo phân tích các trường phái lý thuyết kinh tế chính.
(1) Các
nguyên nhân của lạm phát theo lý thuyết Keynes và hậu Keynes:
Các nhà
kinh tế Keynes và hậu Keynes đưa ra nhiều cách giải thích khác nhau về nguyên
nhân của lạm phát, nhưng về thực chất, chỉ có hai nguyên nhân cơ bản là lạm
phát do cầu và lạm phát do chi phí.
- Lạm
phát do cầu, ví dụ như tăng chi tiêu chính phủ hoặc tăng cung tiền tệ danh
nghĩa đều dẫn đến tăng cầu và gây ra lạm phát. Theo quan điểm của Keynes, chi
tiêu ngân sách có những tác động trái chiều tới tiến triển của mặt bằng giá
chung. Một mặt, tăng chi tiêu chính phủ sẽ làm tăng năng suất lao động ngắn hạn
nhờ ảnh hưởng tích cực của nó tới các hoạt động kinh tế, từ đó là giảm tỷ lệ
lạm phát. Mặt khác, áp lực mạnh mẽ lên tổng cầu và áp lực tăng thuế để bù đắp
chi tiêu ngân sách lại có thể làm phát sinh các đòi hỏi phải tăng lương, đồng
thời tác động bất lợi tới năng suất lao động. Kết hợp chung, áp lực về khả năng
mở rộng sản xuất và tăng lương là nguồn gốc làm gia tăng lạm phát[2].
- Lạm
phát do chi phí, ví dụ như tăng lương hoặc tăng giá các đầu vào. Nhìn chung,
hai nhóm nhân tố này kết hợp với nhau tạo ra quá trình động của lạm phát. Ví dụ
một lạm phát phát sinh do cầu sẽ làm cho người lao động đòi hỏi phải tăng lương
để bù đắp, từ đó dẫn tới chi phí tăng và mở ra một vòng xoáy lạm phát mới...
Do vậy,
mô hình giải thích lạm phát của lý thuyết Keynes và hậu Keynes có thể được đơn
giản hóa như sau:
(5)
+ +
+ + +
trong đó dấu dương (+) dưới mỗi biến được dùng để chỉ
quan hệ cùng chiều giữa biến đó và tỷ lệ lạm phát (nếu dấu âm thì quan hệ là
ngược chiều); p là tỷ lệ lạm phát; w là tốc độ tăng trưởng tiền lương danh
nghĩa; pi là tốc độ thay đổi giá nhập khẩu, tính bằng nội tệ; D là
tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP (%); m là
tốc độ tăng trưởng khối lượng tiền tệ trong lưu thông; ký hiệu -1 là chỉ số của
năm trước, phản ánh tác động trễ của biến đó.
(2) Các
nguyên nhân của lạm phát theo lý thuyết cổ điển và tân cổ điển:
Theo M.
Friedman, nguyên nhân trực tiếp của lạm phát là sự tăng lên quá mức của khối
lượng tiền tệ; nguyên nhân sâu xa là thâm hụt ngân sách và những kỳ vọng sẽ
tiếp tục lạm phát (tâm lý lạm phát). Theo trường phái này, quan hệ giữa thâm
hụt ngân sách và lạm phát phụ thuộc vào phương thức tài trợ cho thâm hụt ngân
sách. Trên thực tế, thâm hụt ngân sách có thể được tài trợ bằng một trong hai
cách (chưa tính đến vay nước ngoài): Hoặc phát hành trái phiếu chính phủ và các
loại giấy tờ có giá tương tự; hoặc phát hành tiền tệ. Giải pháp thứ nhất chính
là trường hợp nghiên cứu của Ricardo với kết luận là không gây tác động tới
tăng giá. Ngược lại, giải pháp thứ hai sẽ gây tác động làm tăng giá; khi đó
thâm hụt ngân sách sẽ là nguồn gốc của quá trình lạm phát. Trong trường hợp thứ
ba, nếu chính phủ áp dụng đồng thời cả hai giải pháp bù đắp nêu trên, ảnh hưởng
lạm phát sẽ tuỳ thuộc vào phần phát hành tiền tệ để bù đắp cho thâm hụt ngân
sách. Mặt khác, các nhà kinh tế tân cổ điển cho rằng người dân luôn luôn có
những kỳ vọng có lý trong thời buổi lạm phát và họ tin rằng tăng trưởng tiền tệ
đồng nghĩa với tăng giá. Vì vậy, lạm phát sẽ tiếp tục tồn tại dai dẳng do tâm lý
lạm phát của người dân.
Do vậy,
mô hình giải thích lạm phát của lý thuyết cổ điển và tân cổ điển có thể được
thể hiện như sau:
p = s(m) (6)
m = m1
+ m2 (7)
m1
= t(D) (8)
m2
= k(g) (9)
trong
đó m1 và m2 lần lượt là tốc độ tăng trưởng tiền tệ để tài
trợ cho thâm hụt ngân sách và để thoả mãn nhu cầu tiền tệ tăng thêm trong quá
trình tăng trưởng kinh tế; g là tốc độ tăng trưởng kinh tế. Giải mô hình này,
chúng ta sẽ thu được phương trình mô tả nguyên nhân của lạm phát theo lý thuyết
cổ điển và tân cổ điển như sau:
p
= p(D, g) (10)
+
+/-
Vì chưa rõ tốc độ tăng trưởng kinh tế ảnh hưởng
dương hay âm tới lạm phát nên dấu của biến g trong phương trình (10) được ghi
theo cả hai khả năng là dương hoặc âm (+/-).
(3) Các nguyên nhân của lạm phát theo lý thuyết
trọng cơ cấu, một nhánh của lý thuyết hậu Keynes thường được áp dụng cho trường
hợp các nước đang phát triển:
Theo phân tích của trường phái trọng cơ cấu, nền
kinh tế cần được chia làm 3 khu vực nông nghiệp, công nghiệp và các đầu vào
nhập khẩu; trên cơ sở đó phân tích ảnh hưởng của những nhân tố cơ cấu trong mỗi
khu vực tới tiến triển của mặt bằng giá. Một trong những mô hình tiêu biểu nhất
của trường phái này là mô hình của Hagger. Mô hình Hagger gồm 8 phương trình
sau:
(11-18)
trong
đó p1, p2, p3 lần lượt là biến động của giá
các khu vực nông nghiệp, công nghiệp và nhập khẩu; S1, S2,
S3 là các biến đại diện cho nhân tố cơ cấu trong mỗi khu vực; là tỷ lệ tăng trưởng thu nhập đầu người và sản xuất đầu người
của khu vực công nghiệp; u là tỷ lệ thất nghiệp; ga là tốc độ tăng
trưởng của sản xuất nông nghiệp.
Vì năng suất lao động được giả định tỷ lệ thuận với
tăng trưởng kinh tế trong khi tỷ lệ thất nghiệp là hàm giảm của cung tiền tệ và
hàm tăng của tốc độ tăng trưởng nguồn lao động, nên có thể bổ sung các quan hệ
này vào mô hình, từ đó giải mô hình để rút ra phương trình xác định giá của
thuyết trọng cơ cấu như sau:
p = p(g,
l, p3, m-1) (19)
+
- + +
trong đó l là tốc độ tăng trưởng nguồn lao động.
Vì p3 = pi.e với pi
là biến động của giá nhập khẩu tính theo ngoại tệ, e là tỷ giá giữa nội tệ và
ngoại tệ, nên phương trình xác định giá nêu trên có thể được viết lại như sau:
p = p(g, l, pi,
e, m-1) (20)
+ - + + +
(4) Mô
hình giữ lại để nghiên cứu:
Trên cơ
sở các nguyên nhân lạm phát và các mô hình giải thích lạm phát của các lý
thuyết kinh tế nêu trên, có thể kết hợp chúng thành một mô hình hỗn hợp để giải
thích nguyên nhân lạm phát tại các nước đang phát triển châu Á. Phương trình
cuối cùng được chọn như sau:
p = p
(g, l, D, w, pi, m, m-1,
e, p-1) (21)
+ -
+ + +
+ + + +
Mặc dù
mục tiêu của nghiên cứu này là xem xét quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm
phát trong quá trình dài hạn và chúng ta cần số liệu của nhiều năm. Tuy nhiên,
nguồn số liệu duy nhất hiện có thể sử dụng được để tính toán là từ các tổ chức
tài chính quốc tế (WB, IMF, ABD), Liên hợp quốc, Tổ chức Lao động thế giới...
đều bắt đầu từ những năm 1960 đến nay, trong đó một số năm không có đủ các số
liệu cần thiết. Do vậy, nghiên cứu này sẽ thực hiện với các chuỗi số liệu sớm
nhất bắt đầu từ những năm 1960; đây cũng là giai đoạn đánh dấu sự tăng lên của
tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát tại các nước đang phát triển châu
Á. Với lý do cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ châu Á đã ảnh hưởng đến quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát tại khu vực này trong giai đoạn
1997-2000 nên cần phải loại bỏ số liệu của giai đoạn này, chúng tôi chỉ sử dụng
số liệu đến năm 1996. Mô hình được ước lượng cho 19 nước đang phát triển châu
Á.
3) Kiểm
tra tính dừng của các chuỗi số:
Theo nguyên
lý của khoa học kinh tế lượng, việc sử dụng phương pháp bình phương cực tiểu
nguyên gốc để ước lượng các phương trình trên chỉ có thể chấp nhận được nếu các
biến trong mô hình đảm bảo tính dừng (stationnarity). Cấp dừng có thể kiểm tra dễ
dàng nhờ kiểm định Augmented Dickey and Fuller (ADF) trong phần mềm EVIEWS. Kết
quả kiểm định cho thấy đối với hầu hết các nước đang phát triển châu Á, các
chuỗi số về tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát đều thoả mãn tính dừng ở cấp
0, tối thiểu cũng ở ngưỡng 10%; do đó có thể áp dụng trực tiếp phương pháp bình
phương cực tiểu nguyên gốc để ước lượng các phương trình trên.
Đối với
nhóm các nước có chuỗi số liệu chưa đảm bảo tính dừng ở cấp 0 (Fiji, Hồng Kông,
Miến Điện, Samoa), chúng tôi đã kiểm tra tính dừng ở cấp 1 và nhận thấy các chuỗi
số liệu đều đảm bảo tính dừng ở cấp này. Do vậy, để đơn giản, chúng tôi thay
phương trình hồi quy nguyên gốc bằng phương trình hồi quy theo sai phân cấp 1.
4) Kết
quả ước lượng kinh tế lượng về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát tại
các nước đang phát triển châu Á:
a) Theo mô hình tuyến tính đơn giản
(1) Đối
với từng nước riêng biệt:
Các kết
quả hồi quy theo mô hình (2) đối với từng nước cho 19 nước nghiên cứu được
trình bày trong bảng 3 dưới đây. Kết quả cho thấy dường như không tồn tại quan
hệ mâu thuẫn giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế và mục tiêu ổn định giá tại đa
số các nước đang phát triển châu Á xung quanh nước ta. Đặc biệt, không thấy
hiện tượng tăng trưởng kinh tế cao tự động kéo theo một tỷ lệ lạm phát cao. Tuy
nhiên, ngoài nhận xét chung trên, còn có thể rút ra một số nhận xét chi tiết
hơn như sau:
Thứ nhất, chỉ có khoảng một nửa số
nước (10/19) có hệ số hồi quy của biến "tăng trưởng kinh tế" là
dương, tức là tăng trưởng kinh tế có đi kèm với lạm phát; đối với các trường
hợp khác (9/19), hệ số hồi quy âm chứng tỏ tăng trưởng kinh tế không đi kèm với
lạm phát mà ngược lại, đã đi kèm với giảm phát.
Bảng 3:
Kết quả hồi quy theo mô hình tương quan đơn
No
|
Nước
|
Hằng số
|
g
|
R2
|
SE
|
DW
|
F-statis
|
Quan sát
|
1
|
Bangladesh
|
5,344
(4,261)
|
1,292
(0,783)
|
0,119
|
10,42
|
1,223
|
2,721
|
1974-1995
|
2
|
Brunây
|
9,101
(2,378)
|
-0,146
(0,364)
|
0,005
|
9,843
|
0,928
|
0,160
|
1960-1993
|
3
|
Trung Quốc
|
3,680
(4,983)
|
0,415
(0,500)
|
0,041
|
7,060
|
0,901
|
0,688
|
1977-1994
|
4
|
Fiji
|
7,657
(0,876)
|
-0,187
(0,121)
|
0,087
|
3,711
|
0,681
|
2,399
|
1966-1993
|
5
|
Hồng Kông
|
8,888
(2,022)
|
-0,111
(0,254)
|
0,023
|
3,523
|
0,665
|
0,191
|
1981-1990
|
6
|
Ấn Độ
|
7,967
(1,664)
|
0,036
(0,304)
|
0,000
|
6,010
|
1,457
|
0,014
|
1961-1994
|
7
|
Inđônêxia
|
3,129
(5,438)
|
1,419
(0,775)
|
0,123
|
7,998
|
1,076
|
3,353
|
1969-1994
|
8
|
Miến Điện
|
14,882
(2,958)
|
-0,466
(0,418)
|
0,045
|
12,41
|
0,635
|
1,240
|
1968-1995
|
9
|
Hàn Quốc
|
14,339
(2,913)
|
-0,342
(0,306)
|
0,035
|
7,450
|
0,834
|
1,244
|
1960-1995
|
10
|
Malaixia
|
2,101
(1,895)
|
0,339
(0,241)
|
0,082
|
3,588
|
1,111
|
1,964
|
1971-1994
|
11
|
Nê pan
|
7,619
(1,666)
|
0,396
(0,360)
|
0,043
|
6,028
|
2,055
|
1,208
|
1965-1993
|
12
|
Pakistan
|
7,752
(1,900)
|
0,044
(0,316)
|
0,001
|
6,108
|
0,757
|
0,019
|
1960-1994
|
13
|
Guine
|
6,860
(1,084)
|
0,019
(0,140)
|
0,001
|
4,477
|
1,416
|
0,019
|
1972-1993
|
14
|
Philippines
|
17,266
(2,146)
|
-1,478
(0,412)
|
0,274
|
8,314
|
1,499
|
12,85
|
1960-1995
|
15
|
Singapour
|
2,647
(2,120)
|
0,076
(0,227)
|
0,003
|
5,059
|
1,018
|
0,112
|
1961-1994
|
16
|
Srilanka
|
7,291
(2,482)
|
0,199
(0,442)
|
0,006
|
6,822
|
0,712
|
0,204
|
1960-1993
|
17
|
Thái Lan
|
7,599
(3,278)
|
-0,294
(0,407)
|
0,015
|
5,502
|
0,924
|
0,522
|
1960-1994
|
18
|
Vanuature
|
8,107
(2,091)
|
-0,156
(0,379)
|
0,014
|
7,001
|
1,759
|
0,170
|
1980-1993
|
19
|
Samoa
|
9,982
(1,257)
|
-0,730
(0,218)
|
0,287
|
6,690
|
1,091
|
11,26
|
1962-1992
|
Ghi chú: Số trong ngoặc dưới mỗi hệ số hồi quy
là sai số chuẩn của hệ số tương ứng.
Nếu loại bỏ 4 nước có tối thiểu 1 trong 2 chuỗi số
tăng trưởng kinh tế và lạm phát không dừng ở cấp 0, thì có tới 10/15 nước hệ số
hồi quy của biến "tăng trưởng kinh tế" là dương. Tuy nhiên, trong cả
hai trường hợp, hệ số của các biến này đều thấp dưới 0,4 tức là khi tốc độ tăng
trưởng kinh tế tăng thêm 1% (ví dụ từ 7% lên 8%) thì tỷ lệ lạm phát chỉ tăng
lên 0,4%; một mức tăng rất thấp và không gây ra những chấn động trong nền kinh
tế. Một số trường hợp hệ số này cao là Bangladesh (1,29), Indonêxia (1,42), tại
đó lạm phát đã đi kèm tăng trưởng kinh tế, hoặc âm là Philippines (-1,48) và
Samoa (-0,754), tại đó tăng trưởng kinh tế đã góp phần hạ thấp tỷ lệ lạm phát.
Tuy nhiên, nếu so sánh với tình hình biến động của lạm phát trên thế giới và
mức độ khi trở thành nguy hiểm (hàng chục hoặc hàng trăm phần trăm), thì tỷ lệ
lạm phát kèm theo tăng trưởng kinh tế nêu trên vẫn rất thấp. Do vậy, tăng
trưởng kinh tế cao không thực sự kèm theo nguy cơ lạm phát cao.
Thứ hai, sai số chuẩn của hệ số (a) trong
tất cả các phương trình ước lượng nêu trên đều rất lớn; điều này chứng tỏ hệ số
này không có ý nghĩa thống kê, tức là biến "tăng trưởng kinh tế"
không có ý nghĩa trong việc giải thích biến động của lạm phát dù hệ số hồi quy
của nó dương hay âm, lớn hay bé.
Thứ ba, nếu quan sát các hệ số xác định
R2 thì có thể thấy 15/19 trường hợp hệ số này nhỏ hơn hoặc chỉ khoảng 0,1. Các
trường hợp khác có hệ số xác định lớn hơn 1 cũng không đáng kể như Bangladesh
(0,119), Indonêxia (0,123), Philippines (0,274) và Samoa (0,287). Điều này cho
thấy vai trò của biến tốc độ tăng trưởng kinh tế trong việc giải thích biến
động của tỷ lệ lạm phát hầu như bị loại trừ.
Đối với 4
nước có chuỗi số liệu không đảm bảo tính dừng ở cấp 0 song đảm bảo tính dừng ở
cấp 1, chúng tôi đã sử dụng mô hình với biến sai phân như sau để ước lượng quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát:
Dp = a * Dg + c
+ u (22)
Kết quả
hồi quy được thể hiện trong bảng 4 cho các nhận xét hoàn toàn tương tự như
trường hợp trên. Do vậy, có thể kết luận chung là không tồn tại mối quan hệ
trực tiếp, đáng tin cậy giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát.
Bảng 4:
Kết quả hồi quy theo mô hình tương quan đơn
No
|
Nước
|
Hằng số
|
g
|
R2
|
SE
|
DW
|
F-statis
|
Quan sát
|
1
|
Fiji
|
0,278
(0,623)
|
-0,164
(0,071)
|
0,189
|
3,114
|
1,983
|
0,030
|
1974-1995
|
2
|
Hồng Kông
|
-0,377
(0,874)
|
-0,099
(0,137)
|
0,069
|
2,603
|
0,760
|
0,524
|
1960-1993
|
3
|
Miến Điện
|
0,844
(1,856)
|
-0,052
(0,283)
|
0,001
|
9,645
|
2,424
|
0,034
|
1977-1994
|
4
|
Samoa
|
-0,129
(1,351)
|
-0,703
(0,191)
|
0,344
|
7,125
|
2,782
|
13,625
|
1966-1993
|
(2) Đối với
tất cả các nước (croiss countries)
Sử dụng
phương pháp nghiên cứu xuyên quốc gia, tức là hồi quy 528 số liệu quan sát của
tất cả 19 nước trong khoảng thời kỳ tương đối giống nhau theo mô hình tuyến
tính đơn giản nêu trên với có và không có biến trễ, chúng tôi thu được các
phương trình tiêu biểu sau đây:
p = 9,638 -
0,213 . g
(0,514) (0,073) (trong ngoặc là sai số chuẩn)
R2 = 0,0159
SE = 7,6698
DW = 0,9224
F = 8,522 SMPL = 528 quan sát.
p
= 9,954 - 0,237 . g + 0,072 . g(-1) - 0,082 . g(-2)
(0,638) (0,078) (0,079) (0,076)
R2 = 0,023 SE
= 7,4028 DW
= 0,9550 F = 3,947 SMPL
= 528 quan sát.
Các
phương trình trên cũng cho thấy không tồn tại quan hệ trực tiếp giữa tăng
trưởng kinh tế và lạm phát vì hệ số xác định R2 của chúng hầu như bằng 0 mặc dù
hệ số của biến "tăng trưởng kinh tế" có ý nghĩa về mặt thống kê. Mặt
khác, dấu của hệ số của biến này âm, tức là nếu tồn tại quan hệ giữa hai biến
tăng trưởng kinh tế và lạm phát thì việc tăng lên của tốc độ tăng trưởng kinh
tế sẽ kéo theo việc giảm tỷ lệ lạm phát mặc dù mức độ giảm không đáng kể.
Như vậy,
kinh nghiệm thực tiễn của các nước đang phát triển châu Á xung quanh nước ta
trong thời kỳ 1960-1995 không khẳng định tồn tại mối quan hệ trực tiếp và dương
giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát theo nghĩa tăng trưởng kinh tế nhanh sẽ tự
động kéo theo hiện tăng tỷ lệ lạm phát tăng lên.
b) Theo mô hình hồi quy bội
(1) Đối
với trường hợp từng nước riêng lẻ:
Bảng 5
dưới đây mô tả kết quả hồi quy dựa theo mô hình (21) cho 17 nước đang phát
triển châu Á xung quanh nước ta (riêng 2 trường hợp Brunây và Malaixia, đã
không ước lượng được phương trình khả dĩ chấp nhận được). Đây là những kết quả
hồi quy có chất lượng cao nhất theo tiêu chuẩn T-student để kiểm định ý nghĩa
của các biến tham gia giải thích biến động của tỷ lệ lạm phát, theo tiêu chuẩn
R2 để kiểm định khả năng giải thích lạm phát của tất cả các biến trong mô hình
và theo tiêu chuẩn F để giải thích tỷ lệ biến động của phương sai.
Bảng 5:
Quan hệ tăng trưởng và lạm phát tại các nước
đang phát
triển châu Á (trong ngoặc là T-student)
Biến giải
thích
|
Bangla-
desh
|
Trung Quốc
|
Fiji
|
Hồng-
Kông
|
Ấn Độ
|
Indo
nêxia
|
Miến Điện
|
Hàn Quốc
|
Nêpan
|
g
|
-1,395
(-5,874)
|
-0,352
(-1,42)
|
-0,040
(-0,42)
|
0,480
(24,55)
|
-0,670
(-5,48)
|
0,207
(0,314)
|
-0,359
(-1,35)
|
-0,294
(-2,46)
|
-0,216
(-0,69)
|
l
|
2,130
(2,757)
|
1,185
(1,715)
|
-2,37**
(25,66)
|
-3,218
(-1,41)
|
|||||
D
|
0,576
(9,262)
|
0,831
(3,600)
|
2,029
(3,366)
|
1,124
(2,891)
|
|||||
w
|
0,090
(3,147)
|
0,567
(2,758)
|
0,104*
(9,540)
|
0,228*
(1,771)
|
0,364
(5,560)
|
||||
pi
|
0,310
(3,267)
|
0,36***
(2,611)
|
0,134
(3,553)
|
0,403
(2,041)
|
0,215
(4,808)
|
0,157
(2,507)
|
|||
m2
|
0,236
(2,642)
|
0,306
(3,780)
|
0,316
(1,794)
|
0,414
(3,740)
|
0,231
(1,858)
|
||||
m2(-1)
|
0,199
(2,233)
|
||||||||
e
|
0,416
(7,244)
|
0,211
(2,150)
|
0,160
(3,044)
|
0,312
(3,351)
|
|||||
p-1
|
0,432
(2,481)
|
1,182
(49,85)
|
0,311
(2,000)
|
0,383
(3,674)
|
0,283
(2,835)
|
||||
R2
|
0,887
|
0,866
|
0,729
|
0,998
|
0,783
|
0,761
|
0,807
|
0,866
|
0,435
|
R2 điều chỉnh
|
0,793
|
0,799
|
0,656
|
0,996
|
0,740
|
0,669
|
0,775
|
0,842
|
0,330
|
DW
|
2,251
|
1,739
|
2,263
|
2,378
|
1,321
|
1,494
|
2,073
|
1,981
|
1,581
|
F-Statis
|
11,70
|
12,95
|
10,79
|
520,47
|
18,03
|
8,29
|
25,11
|
35,67
|
4,15
|
Số quan sát
|
15
|
13
|
20
|
10
|
19
|
19
|
22
|
27
|
20
|
* : Biến gốc
trong mô hình được thay bằng biến trễ;
**: Biến gốc
được thay bằng biến tỷ lệ thất nghiệp;
***: w-1
: Biến gốc được thay bằng tỷ lệ tăng trưởng tiền lương năm trước.
Bảng 5: Quan hệ tăng trưởng và
lạm phát tại
các nước đang phát triển châu Á (tiếp
theo)
Biến giải
thích
|
Pakistan
|
Guine
|
Philip-
pines
|
Singapore
|
Srilanka
|
Thái Lan
|
Vanu
ature
|
Samoa
|
g
|
0,272
(1,526)
|
-0,342
(-1,944)
|
-1,391
(-4,246)
|
-0,505
(-5,219)
|
-1,771
(-3,240)
|
-0,310
(-1,935)
|
-0,643
(-1,856)
|
-0,584
(-2,658)
|
l
|
2,281
(4,520)
|
3,610*
(3,198)
|
||||||
D
|
0,560
(3,015
|
0,707
(3,152)
|
0,511
(2,594)
|
|||||
w
|
0,172
(4,643)
|
0,207
(3,617)
|
0,448***
(1,878)
|
|||||
pi
|
0,203
(5,542)
|
0,128*
(2,086)
|
0,415
(6,647)
|
0,247
(12,580)
|
0,148
(3,513)
|
0,366
(10,323)
|
0,176
(2,061)
|
|
m2
|
0,290
(2,095)
|
0,231
(2,680)
|
0,243
(2,892)
|
|||||
m2(-1)
|
0,087
(2,100)
|
0,259
(5,474)
|
0,400
(3,165)
|
0,154
(2,163)
|
||||
e
|
0,265
(2,430)
|
0,685
(3,550)
|
||||||
p-1
|
0,430
(4,839)
|
0,459
(2,300)
|
||||||
R2
|
0,860
|
0,735
|
0,888
|
0,939
|
0,775
|
0,900
|
0,481
|
0,641
|
R2 điều chỉnh
|
0,832
|
0,618
|
0,856
|
0,927
|
0,714
|
0,881
|
0,325
|
0,574
|
DW
|
2,108
|
3,170
|
2,776
|
2,084
|
1,517
|
1,553
|
2,252
|
1,661
|
F-Statis
|
30,72
|
6,25
|
27,85
|
81,722
|
12,881
|
47,993
|
3,085
|
9,519
|
Số quan sát
|
19
|
14
|
19
|
20
|
20
|
20
|
14
|
20
|
* : Biến gốc
trong mô hình được thay bằng D(-1) là tỷ lệ thâm hụt ngân sách năm trước.
Kết quả cho thấy chỉ có ít trường hợp hệ số của biến
"tăng trưởng kinh tế (g)" có ý nghĩa về mặt thống kê để giải thích
biến động của lạm phát, song ngay trong các trường hợp này, hệ số ước lượng của
biến này lại có dấu âm, tức là khi tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng lên thì sẽ tạo
ra quá trình giảm phát dài hạn. Ngoài ra, có ba trường hợp hệ số hồi quy của
biến tăng trưởng kinh tế dương; đó là Indonêxia, Pakistan et Hồng Kông, nhưng
đối với hai trường hợp đầu, hệ số quan hệ không có ý nghĩa. Trong trường hợp
Hồng Kông, phương trình ước lượng rất tốt song kết luận chưa thực sự chắc chắn
vì độ dài của chuỗi số liệu chưa thật đảm bảo.
Như vậy, nhìn chung với kết quả ước lượng như trên,
chúng ta chỉ có thể nói rằng biến "tăng trưởng kinh tế" có thể có ảnh
hưởng tích cực song yếu tới quá trình giảm phát trong trường hợp các nước đang
phát triển châu Á, nơi có tỷ lệ lạm phát thấp. Mặc dù vậy, kết luận này vẫn
chưa thực sự tin cậy và cần phải có những nghiên cứu bổ sung. Ngoài ra, kết quả
ước lượng còn cho thấy ảnh hưởng rất khác nhau của các nhân tố khác ngoài nhân
tố tốc độ tăng trưởng kinh tế tới lạm phát tại các nước đang phát triển châu Á.
(2) Đối với trường hợp nhiều nước:
Các kết quả hồi quy được trình bày trong các bảng 6,
7 và 8, trong đó bảng 6 thể hiện kết quả hồi quy xuyên quốc gia cho tất cả 19
nước; bảng 7 thể hiện kết quả hồi quy xuyên quốc gia cho 9 nước có tốc độ tăng
trưởng kinh tế trung bình hàng năm cao hơn 5%; bảng 8 thể hiện kết quả hồi quy
xuyên quốc gia cho 10 nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm
thấp dưới 5%.
Trong trường hợp hồi quy cho cả 19 nước, biến
"tăng trưởng kinh tế" có ý nghĩa rất cao ở tất cả các phương trình
hồi quy. Hệ số của biến này dao động từ -0,37 đến -0,53 tức là rất khác 0. Hệ
số tương quan "R2 điều chỉnh" dao động từ 0,498 đến 0,547 là mức chấp
nhận được đối với các nghiên cứu hồi quy xuyên quốc gia. Do vậy, như kết luận
bước đầu đối với trường hợp từng nước riêng lẻ, tồn tại một quan hệ âm giữa
tăng trưởng kinh tế và lạm phát theo nghĩa tăng trưởng kinh tế có tác động tích
cực tới chống lạm phát. Kết quả hồi quy cũng cho thấy khi tốc độ tăng trưởng
kinh tế tăng thêm 1% thì tỷ lệ lạm phát sẽ giảm xuống khoảng 0,4-0,5%.
Tuy nhiên nếu chia 19 nước này thành hai nhóm nhỏ
hơn, có thể thấy trong trường hợp các nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
(hơn 5%), biến "tăng trưởng kinh tế" không tham gia giải thích biến
động của lạm phát vì hai lý do: Một mặt, các thống kê T-student của biến
"tăng trưởng kinh tế" cho biết biến này không có ý nghĩa trong việc
giải thích các biến động của lạm phát. Mặt khác, giá trị hệ số của biến này rất
thấp, tức là nếu có tham gia giải thích biến động của lạm phát thì mức độ cũng
không đáng kể.
Trong trường hợp phương trình 2 (bảng 7), mặc dù
biến "tăng trưởng kinh tế" đã đạt tới ngưỡng bắt đầu có ý nghĩa giải
thích biến động của lạm phát, nhưng nhiều biến khác như tiền lương, cung tiền
tệ và tỷ giá lại không có ý nghĩa. Do vậy, phương trình này không có ý nghĩa
trong việc giải thích biến động của lạm phát. Ngược lại, trong tất cả các
phương trình liệt kê trong bảng 7, các biến khác như "tốc độ tăng trưởng
nguồn lao động", "thâm hụt ngân sách", "giá nhập khẩu tính
theo ngoại tệ", "tốc độ tăng trưởng tiền tệ trễ 1 năm", "tỷ
giá", và "giá trễ" đều đóng vai trò quan trọng trong việc giải
thích biến động của lạm phát.
Đối với trường hợp các nước có tốc độ tăng trưởng
kinh tế thấp (dưới 5%), biến "tăng trưởng kinh tế" rất có ý nghĩa
trong việc giải thích biến động của lạm phát. Các hệ số của biến này trong tất
cả các phương trình đều ổn định. Hệ số xác định điều chỉnh R2 thoả mãn điều
kiện thống kê. Trong số 7 phương trình, phương trình thứ 3 là phương trình tốt
nhất. Như vậy, đối với nhóm nước này, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng lên có
tác dụng làm giảm mức độ lạm phát. Kết luận này cũng phù hợp với thực tiễn quản
lý kinh tế vì kinh nghiệm đã cho thấy khi nâng được tốc độ tăng trưởng kinh tế
lên trên mức tối thiểu so với nhu cầu tại các nước nghèo thì sẽ góp phần rất
quan trọng vào việc giảm bớt các phi cân bằng kinh tế vĩ mô và các phi cân bằng
trên thị trường hàng hoá và dịch vụ, từ đó làm giảm áp lực lạm phát, tức là làm cho tỷ lệ lạm phát giảm dần. Kết quả hồi quy
cũng cho thấy khi tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng thêm 1% thì có thể làm giảm
tỷ lệ lạm phát xuống thêm khoảng 0,6%.
Tóm lại, các kết quả nghiên cứu xuyên quốc gia cho
thấy trong trường hợp các nước đang phát triển châu Á, tăng trưởng kinh tế có
ảnh hưởng tích cực tới giảm tỷ lệ lạm phát; nhưng điều này chỉ xảy ra đối với
nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp (dưới 5%). Đối với các nước có
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao (hơn 5%), quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
lạm phát không xảy ra.
Kết luận chung:
Lý thuyết kinh tế vĩ mô và kinh nghiệm thực tế trên
thế giới đều không đưa ra những khẳng định có tính thuyết phục về mối quan hệ
tích cực hay tiêu cực giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Trong nghiên cứu
này đối với trường hợp các nước đang phát triển châu Á xung quanh nước ta, chúng tôi thấy rằng không thể khẳng định một
cách đơn giản tăng trưởng kinh tế là một trong những nguyên nhân của lạm phát
vì không có bất kỳ quan hệ trực tiếp nào được tìm thấy giữa tăng trưởng kinh tế
và lạm phát. Mặt khác, cũng không thể khẳng định khi tỷ lệ lạm phát tăng lên
thì nền kinh tế sẽ được tăng trưởng nhanh hơn. Các kết quả kinh tế lượng trong
trường hợp sử dụng mô hình hồi quy đơn cho thấy những biến động của tốc độ tăng
trưởng kinh tế không tham gia vào giải thích chuyển động của tỷ lệ lạm phát và
cũng không thấy quan hệ trực tiếp giữa hai chỉ tiêu này. Do vậy, để phân tích
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát, cần phải nghiên cứu các quan hệ
phức tạp hơn.
Theo các mô hình phức tạp hơn với nhiều biến giải
thích được xây dựng từ các lý thuyết kinh tế khác nhau, quan hệ âm giữa tăng
trưởng kinh tế và lạm phát đã được tìm thấy, song chỉ đối với trường hợp các
nước đang phát triển châu Á có tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp (dưới 5%/năm).
Trong trường hợp các nước đang phát triển châu Á có tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao (trên 5%/năm), quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát không tồn tại.
Như vậy, với cơ sở lý thuyết và các thông tin đã
biết trên thế giới và từ kết quả nghiên cứu này, bước đầu có thể kết luận về
dài hạn, vẫn có thể hài hòa giữa các mục tiêu kinh tế vĩ mô như thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế với tốc độ cao đi đôi với ổn định giá; tức là không lo ngại lạm
phát bùng lên ngoài tầm kiểm soát trong bối cảnh triển khai thực hiện chính
sách tăng trưởng kinh tế nhanh. Do vậy, về dài hạn, luôn luôn phải đề cao vai
trò của chính sách thúc đẩy tăng trưởng thay vì theo đuổi chính sách ổn định, trì
trệ.
Bảng 6: Hồi quy xuyên quốc gia
cho 19 nước (trong ngoặc là T-student)
Các biến giải
thích
|
Phương trình 1
|
Phương trình 2
|
Phương trình 3
|
Phương trình 4
|
Phương trình 5
|
Phương trình 6
|
Phương trình 7
|
g
|
-0,529
(-5,421)
|
-0,546
(-5,923)
|
-0,566
(-5,732)
|
-0,423
(-5,087)
|
-0,417
(-5,346)
|
-0,407
(-5,146)
|
-0,368
(-5,599)
|
l
|
-0,227
(-0,558)
|
-0,844
(-1,369)
|
-0,731
(-1,446)
|
-0,723
(-1,527)
|
|||
D
|
0,128
(1,337)
|
0,117
(1,258)
|
0,140
(1,747)
|
0,137
(1,807)
|
|||
w
|
0,056
(2,293)
|
0,056
(2,042)
|
0,055
(2,008)
|
||||
pi
|
0,193
(7,521)
|
0,191
(7,574)
|
0,196
(7,600)
|
0,183
(8,353)
|
0,179
(8,247)
|
0,181
(8,394)
|
0,178
(8,884)
|
m2
|
0,265
(4,816)
|
0,261
(4,852)
|
0,254
(4,559)
|
0,186
(4,667)
|
0,189
(5,142)
|
0,186
(4,758)
|
0,164
(5,178)
|
m2(-1)
|
0,104
(1,949)
|
0,097
(1,874)
|
0,089
(1,641)
|
0,121
(3,220)
|
0,130
(3,609)
|
0,114
(3,075)
|
0,080
(2,596)
|
e
|
0,102
(2,499)
|
0,099
(2,476)
|
0,110
(2,777)
|
0,135
(3,971)
|
0,131
(3,860)
|
0,148
(4,473)
|
0,120
(4,581)
|
p-1
|
0,313
(6,214)
|
0,307
(6,317)
|
0,311
(6,172)
|
0,322
(7,166)
|
0,336
(7,830)
|
0,330
(7,456)
|
0,339
(8,235)
|
Hằng số
|
2,096
(1,471)
|
2,505
(1,894)
|
1,714
(2,363)
|
||||
R2
|
0,562
|
0,562
|
0,558
|
0,532
|
0,523
|
0,524
|
0,507
|
R2 ajust
|
0,545
|
0,547
|
0,541
|
0,519
|
0,512
|
0,513
|
0,498
|
DW
|
1,958
|
1,965
|
1,942
|
1,875
|
1,890
|
1,844
|
1,922
|
F-Statis
|
32,74
|
37,96
|
32,78
|
38,86
|
50,91
|
45,63
|
59,38
|
Số quan sát
|
213
|
215
|
217
|
283
|
286
|
298
|
354
|
Bảng 7: Hồi quy xuyên quốc gia cho 9 nước có tốc độ
tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm cao hơn 5%
Các biến giải
thích
|
Phương trình 1
|
Phương trình 2
|
Phương trình 3
|
Phương trình 4
|
Phương trình 5
|
Phương trình 6
|
Phương trình 7
|
g
|
-0,085
(-0,545)
|
-0,259
(-1,944)
|
-0,155
(-1,020)
|
-0,036
(-0,285)
|
-0,165
(-1,502)
|
-0,042
(-0,342)
|
-0,058
(-0,677)
|
l
|
-0,973
(-2,103)
|
-0,714
(-1,577)
|
-1,134
(-3,147)
|
-0,735
(-2,173)
|
|||
D
|
0,238
(2,483)
|
0,193
(2,044)
|
0,231
(2,936)
|
0,140
(1,869)
|
|||
w
|
0,043
(1,253)
|
0,040
(1,155)
|
0,042
(1,217)
|
||||
pi
|
0,213
(7,534)
|
0,201
(7,188)
|
0,214
(7,475)
|
0,211
(8,642)
|
0,199
(8,049)
|
0,210
(8,462)
|
0,205
(8,755)
|
m2
|
0,068
(0,974)
|
0,075
(1,069)
|
0,075
(1,068)
|
0,056
(1,075)
|
0,048
(0,900)
|
0,066
(1,254)
|
0,021
(0,498)
|
m2(-1)
|
0,188
(3,055)
|
0,168
(2,734)
|
0,190
(3,040)
|
0,188
(4,032)
|
0,171
(3,588)
|
0,183
(3,863)
|
0,146
(3,614)
|
e
|
0,091
(2,008)
|
0,077
(1,696)
|
0,122
(2,760)
|
0,122
(3,300)
|
0,116
(3,071)
|
0,143
(3,914)
|
0,111
(3,784)
|
p-1
|
0,350
(5,341)
|
0,334
(5,024)
|
0,301
(5,840)
|
0,372
(6,575)
|
0,351
(6,119)
|
0,395
(6,959)
|
0,417
(8,267)
|
Hằng số
|
không có
|
||||||
R2
|
0,641
|
0,629
|
0,627
|
0,652
|
0,630
|
0,636
|
0,622
|
R2 ajust
|
0,618
|
0,608
|
0,606
|
0,636
|
0,616
|
0,622
|
0,611
|
DW
|
1,920
|
1,818
|
1,904
|
1,859
|
1,729
|
1,839
|
1,899
|
F-Statis
|
26,83
|
29,57
|
29,51
|
40,76
|
43,79
|
45,48
|
59,16
|
Số quan sát
|
129
|
130
|
131
|
160
|
161
|
163
|
186
|
* : Trung Quốc, Indonexia, Malaixia, Hàn
Quốc, Hong Kong, Pakistan, Singapore, Srilanka và Thái Lan.
Bảng 8: Hồi quy xuyên quốc gia cho 10 nước có tốc độ
tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm thấp dưới 5%
Các biến giải
thích
|
Phương trình 1
|
Phương trình 2
|
Phương trình 3
|
Phương trình 4
|
Phương trình 5
|
Phương trình 6
|
Phương trình 7
|
g
|
-0,636
(-4,508)
|
-0,658
(-4,861)
|
-0,621
(-4,779)
|
-0,558
(-4,629)
|
-0,537
(-4,787)
|
-0,448
(-4,398)
|
-0,423
(-4,655)
|
l
|
-0,610
(-0,678)
|
-0,630
(-0,835)
|
-0,606
(-0,907)
|
||||
D
|
0,070
(0,291)
|
0,046
(0,209)
|
0,163
(0,868)
|
0,210
(1,177)
|
|||
w
|
0,083
(1,903)
|
0,077
(1,833)
|
0,078
(1,942)
|
||||
pi
|
0,172
(3,696)
|
0,167
(3,734)
|
0,170
(3,930)
|
0,152
(4,057)
|
0,154
(4,087)
|
0,144
(3,997)
|
0,146
(4,596)
|
m2
|
0,444
(4,821)
|
0,420
(7,326)
|
0,402
(7,750)
|
0,244
(3,904)
|
0,259
(4,843)
|
0,257
(4,284)
|
0,287
(6,945)
|
m2(-1)
|
0,008
(0,087)
|
0,073
(1,242)
|
0,096
(1,748)
|
0,074
(1,296)
|
0,078
(1,742)
|
||
e
|
0,199
(2,567)
|
0,177
(2,547)
|
0,211
(3,631)
|
0,182
(2,984)
|
0,167
(2,761)
|
0,186
(3,186)
|
0,184
(4,099)
|
p-1
|
0,314
(3,841)
|
0,283
(4,477)
|
0,289
(4,905)
|
0,296
(4,118)
|
0,335
(5,056)
|
0,301
(4,312)
|
0,329
(5,653)
|
Hằng số
|
|||||||
R2
|
0,559
|
0,563
|
0,549
|
0,456
|
0,436
|
0,444
|
0,446
|
R2 ajust
|
0,512
|
0,530
|
0,525
|
0,423
|
0,407
|
0,418
|
0,429
|
DW
|
2,056
|
2,051
|
1,971
|
2,026
|
2,058
|
1,918
|
1,976
|
F-Statis
|
11,87
|
16,96
|
22,65
|
13,79
|
15,20
|
17,01
|
26,08
|
Số quan sát
|
84
|
86
|
99
|
123
|
125
|
135
|
168
|
* : Bangladesh, Fiji, Ấn Độ, Miến Điện, Philippines,
Brunây, Nêpal, Guine, Vanuature, Samoa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét