Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2013

(2) CÁC CÂN ĐỐI VÀ QUAN HỆ VĨ MÔ CHỦ YẾU CỦA NỀN KTQD

CÁC CÂN ĐỐI VÀ QUAN HỆ VĨ MÔ CHỦ YẾU CỦA NỀN KTQD
        4) Cân đối gộp trong hệ thống tài khoản quốc gia
a) Vài nét về phát triển của HTTKQG Việt nam
(1) Vai trò của hệ thống tài khoản quốc gia:
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống thông tin đóng vai trò rất quan trọng đối với sản xuất kinh doanh, vì mọi hoạt động trong hệ kinh tế xã hội đều gắn với tín hiệu của thị trường và phát triển trên cơ sở thông tin tín hiệu của thị trường. Trong hệ thống thông kê số liệu cần thu thập, các thông tin cung và cầu đều quan trọng nhưng thông tin về cầu đóng vai trò quan trọng hơn vì sản xuất phải thích nghi với nhu cầu. Chính vì vậy, việc xây dựng hệ thống thông tin SNA là một trong những nhiệm vụ trung tâm.
Việt Nam đã bắt đầu triển khai thử nghiệm xây dựng những bảng cân đối quan trọng nhất trong hệ SNA từ năm 1990 dựa vào nguồn tài trợ của cơ quan thống kê Liên hợp quốc. Cuối năm 1991, những kết quả đầu tiên đã được công bố và lấy ý kiến các nhà kinh tế.


Trên cơ sở những kết quả này, ngày 25/12/1992, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định 183/Ttg bắt đầu áp dụng hệ thống thống kê SNA ở nước ta từ năm 1993 thay thế cho hệ thống các Bảng cân đối kinh tế quốc dân trong hệ MPS. Tuy nhiên, đến nay, việc sử dụng hệ thống tài khoản quốc gia trong phân tích kinh tế ở nước ta vẫn bị hạn chế do chưa có sự hướng dẫn cụ thể, thống nhất trong từng ngành, từng lĩnh vực.
(2) Sơ lược về hệ thống SNA:
Hệ thống SNA là hệ thống thống kê phục vụ nhu cầu phân tích tổng hợp một cách tổng hợp toàn bộ các hoạt động kinh tế trong một nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Đến này, đay vẫn là hệ thống thống kê kinh tế xã hội tiên tiến nhất được áp dụng ở hầu hết các nước trên thế giới.
Hệ thống SNA được hình thành bởi một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, được trình bày dưới dạng những bảng cân đối hoặc những tài khoản tổng hợp nhằm phản ánh những điều kiện sản xuất, kết quả sản xuất tổng hợp, quá trình phân phối, phân phối lại thu nhập giữa các ngành kinh tế, giữa các khu vực thể chế và các nhóm dân cư, phản ánh quá trình sử dụng cuối cùng kết quả sản xuất cho các nhu cầu: tiêu dùng cuối cùng của các cá nhân dân cư và xã hội, tích luỹ tài sản, xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ với nước ngoài.
Trên cơ sở các bảng này, chúng ta sẽ thấy cơ cấu kinh tế, xu thế phát triển về trình độ và hiệu quả sản xuất tổng hợp, phản ánh các mối quan hệ giữa các ngành, các tỷ lệ quan trọng nhất của quá trình tái sản xuất xã hội trong từng thời kỳ nhất định, nhất là các quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng cuối cùng, sản xuất và tích luỹ tài sản, sản xuất trong nước và quan hệ với nước ngoài...
Hệ thống SNA gồm nhiều bảng liên hoàn nối với nhau thành hệ thống khớp với nhau; cộng trừ nhân hoặc chia bảng A với bảng B sẽ cho kết quả bảng C... Thay số liệu trong một ô là toàn hệ thống thay đổi. Chính nhờ đặc trưng này mà người ta thường sử dụng các bảng SNA để kiểm tra sự khớp nhau của các nguồn thông tin. Với hệ SNA, không thể bịa ra số liệu được vì càng bịa số liệu, sai số càng chồng lên nhau, dẫn tới những mâu thuẫn không thể chấp nhận được.
Như vậy, hệ thống tài khoản quốc gia SNA là một mô hình khái quát về nền kinh tế được thể hiện dưới dạng các biểu, bảng phản ánh các quan hệ kinh tế. Dựa trên mô hình khái quát này, có thể xây dựng nhiều loại mô hình toán học khác nhau ứng dụng trong phân tích kinh tế, phân tích ảnh hưởng của các chính sách tới kết quả sản xuất, kinh doanh, lập kế hoạch và dự báo kinh tế ở tầm vĩ mô.
Hệ thống tài khoản quốc gia gồm những tài khoản chủ yếu sau:
  - Tài khoản sản xuất,
  - Tài khoản thu nhập và phân phối thu nhập,
  - Tài khoản vốn và tài chính,
  - Tài khoản quan hệ kinh tế với nước ngoài,
  - Bảng tổng kết tài sản,
  - Bảng vào / ra (Input / Output - I/O).
Ngoài những tài khoản tổng hợp, còn có các bảng phụ nhằm bổ xung, phân tích cụ thể từng mặt của quá trình tái sản xuất. Trong các tài khoản tổng hợp trên, bảng I/O là trung tâm của hệ thống.
(3) Khái niệm sản xuất và bảng phân ngành kinh tế quốc dân ở Việt nam:
Từ trước năm 1992, Việt Nam vận dụng hệ thống bảng cân đối kinh tế quốc dân theo phương thức xã hội chủ nghĩa, trong đó toàn bộ hoạt động của nền kinh tế được phân thành hai khu vực: Khu vực sản xuất vật chất và khu vực không sản xuất. Chỉ có lao động trong khu vực sản xuất vật chất mới trực tiếp sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội; còn khu vực không sản xuất không tham gia trực tiếp vào sản xuất ra của cải vật chất xã hội mà chỉ tiêu dùng những của cải xã hội do khu vực sản xuất vật chất tạo ra. Thu nhập của các thành viên trong khu vực không sản xuất là do quá trình phân phối lại thu nhập đã được tạo ra từ khu vực sản xuất.
Căn cứ vào quan niệm về sản xuất như trên, khu vực sản xuất bao gồm các ngành kinh tế: nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp (cả công nghiệp khai thác và chế biến), xây dựng, thương nghiệp, dịch vụ ăn uống, vận tải hàng hoá và bưu chính viễn thông phục vụ cho sản xuất và một vài ngành sản xuất vật chất nhỏ khác. Tất cả các hoạt động ngoài các ngành trên, bao gồm quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, kinh doanh tiền tệ, tài chính, dịch vụ phục vụ cộng đồng, văn hoá, khoa học kỹ thuật, y tế, giáo dục, thể thao... thuộc khu vực không sản xuất.
Trong khu vực sản xuất vật chất, chúng ta còn chia nhỏ ra làm hai khu vực nhỏ hơn: Khu vực sản xuất ra tư liệu sản xuất (khu vực I) và khu vực sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng (khu vực II), để nghiên cứu mối quan hệ giữa hai khu vực này và xây dựng chiến lược kinh tế vĩ mô. Ví dụ phải ưu tiên phát triển sản xuất khu vực I trên cơ sở đó mới phát triển khu vực II.
Từ năm 1992, Việt nam đã chuyển sang sử dụng hệ thống SNA nên các khái niệm về sản xuất và phân ngành kinh tế quốc dân đã khác căn bản. Theo quan niệm của hệ SNA, sản xuất là mọi hoạt động của con người với tư cách là cá nhân hay một tổ chức, bằng năng lực của mình, cùng với các yếu tố tài nguyên, đất đai và vốn, sản xuất ra những sản phẩm vật chất và dịch vụ hữu ích và có hiệu quả, nhằm thoả mãn nhu cầu sử dụng cho sản xuất, sử dụng cho nhu cầu tiêu dùng cuối cùng của đời sống sinh hoạt hộ gia đình dân cư, nhà nước, tích luỹ tài sản để mở rộng sản xuất và nâng cao đời sống xã hội, xuất khẩu ra nước ngoài...
Từ quan niệm sản xuất trên, đã dẫn tới cách phân ngành kinh tế quốc dân như sau (theo Nghị định 75/CP của Chính phủ ngày 27 tháng 10 năm 1993): Toàn bộ nền kinh tế quốc dân được phân chia thành 3 khu vực:
+ Khu vực I bao gồm những hoạt động khai thác sản phẩm từ tự nhiên như nông nghiệp, lâm nghiệp, khai thác và nuôi trồng thuỷ, hải sản;
+ Khu vực II bao gồm những hoạt động khai thác và chế biến các sản phẩm từ mỏ các loại, công nghiệp chế biến, sản xuất và phân phối điện, nước, ga, và ngành xây dựng;
+ Khu vực III bao gồm các hoạt động dịch vụ như thương nghiệp, vận tải, bưu chính viễn thông, quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, văn hoá, y tế, giao dục, dịch vụ phục vụ cá nhân và cộng đồng...
Trong mỗi khu vực lại chia nhỏ ra các ngành kinh tế cấp 1, cấp 2 và cấp 3. Có 20 ngành cấp 1 theo phân loại của Việt nam.
Sự khác nhau trong quan niệm về sản xuất giữa hệ MPS và hệ SNA:
Điểm khác biệt cơ bản nhất về khái niệm sản xuất theo hệ SNA so với hệ MPS là sản xuất theo SNA bao gồm toàn bộ hoạt động của con người, tạo ra sản phẩm cho xã hội, không phải chỉ là sản xuất sản phẩm vật chất mà bao gồm cả sản phẩm là dịch vụ. Những sản phẩm vật chất và dịch vụ đó có thể đem trao đổi trên thị trường và cũng có thể không đem trao đổi trên thị trường mà để tự tiêu dùng.
(4) Khái niệm lãnh thổ kinh tế trong hệ SNA:
Các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp trong các tài khoản thuộc hệ thống tài khoản quốc gia SNA được tính theo phạm vi lãnh thổ kinh tế, không phải theo lãnh thổ địa lý. Lãnh thổ kinh tế của một quốc gia bao gồm các đơn vị hoạt động sản xuất kinh  doanh dưới hình thức một tổ chức, cá nhân, hộ gia đình thường trú. Các đơn vị hoạt động sản xuất kinh  doanh dưới hình thức một tổ chức, cá nhân, hộ gia đình không thường trú thì không thuộc lãnh thổ kinh tế của quốc gia mà thuộc nước ngoài.
- Đơn vị thường trú của lãnh thổ kinh tế Việt nam bao gồm:
+ Các đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt động trong các ngành kinh tế thuộc tất cả các hình thức sở hưũ: Nhà nước, tập thể, tư nhân, hỗn hợp, cá thể... của Việt nam hoạt động trên lãnh thổ địa lý của Việt nam.
+ Các đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt động trong các ngành kinh tế của nước ngoài đầu tư trực tiếp, hợp tác liên doanh ở Việt nam với thời gian trên 1 năm.
+ Các tổ chức hoặc cư dân Việt nam đi công tác, làm việc ở nước ngoài thời gian dưới 1 năm, kể cả học sinh Việt nam đi du học ở nước ngoài trên 1 năm.
+ Các lãnh sự quán, đại sứ quán, đại diện quốc phòng, an ninh làm việc ở nước ngoài.
- Đơn vị không thường trú của lãnh thổ kinh tế Việt nam bao gồm:
+ Phần còn lại của các đơn vị thuộc các nước không hoạt động trên lãnh thổ địa lý Việt nam.
+ Các đơn vị sản xuất kinh doanh của Việt nam hoạt động ở nước ngoài với thời gian trên 1 năm.
+ Các tổ chức hoặc cá nhân cư dân nước ngoài hoạt động ở Việt nam thời gian dưới 1 năm, kể cả học sinh nước ngoài du học ở Việt nam.
+ Các đại sứ quán, lãnh sự quán, tổ chức quốc phòng, an ninh của nước ngoài làm việc tại Việt nam.
Việc xác định đơn vị thường trú đóng vai trò rất quan trọng khi tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp để xây dựng hệ thống tài khoản quốc gia.
Phân theo vùng, lãnh thổ trong hệ thống SNA:
Các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp chủ yếu trong hệ SNA ngoài việc được tính chung cho cả nước, còn được tính cho từng vùng, lãnh thổ. Các chỉ tiêu giá trị sản xuất, chi phí trung gian, giá trị tăng thêm còn được xác định theo tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Tính chỉ tiêu kinh tế tổng hợp theo vùng, lãnh thổ, tỉnh, thành phố là một yêu cầu khách quan của công tác quản lý kinh tế, phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế và cơ chế kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân ở tầm vĩ mô ở nước ta. Trong quá trình tính, cần coi tỉnh, thành phố là một cấp quản lý kinh tế (cấp địa phương), một cấp kế hoạch, cấp thu hci ngân sách, là đơn vị cơ sở hành chính để hình thành các vùng kinh tế liên hệ với nhau trong một thể thống nhất của cả nước.
(5) Vấn đề giá cả trong xây dựng hệ SNA:
Các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp trong hệ thống tài khoản quốc gia SNA được tính theo hai loại giá: giá thực tế (hiện hành), và giá so sánh năm gốc.
Giá thực tế là giá phát sinh trong quá trình giao dịch của năm báo cáo. Giá thực tế phản ánh sự vận động thống nhất của giá trị sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ trong sản xuất, kinh doanh, trong quá trình lưu thông, phân phối và sử dụng cuối cùng với sự vận động tiền tệ, tài chính, thanh toán. Nhờ hệ thống giá này, chúng ta hiểu được thực tiễn khách quan về cơ cấu kinh tế, mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành trong sản xuất, mối quan hệ phân phối thu nhập, mối quan hệ giữa kết quả sản xuất với phần huy động vào ngân sách... trong từng năm. Chúng ta sống với hệ thống giá hiện hành nên mọi phân tích nên cố gắng dựa vào hệ thống giá này.
Giá so sánh năm gốc là giá lấy sản xuất thực tế của một năm nào đó được chọn làm gốc, trên cơ sở đó tính đổi các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của các năm khác theo giá năm gốc, nhằm loại trừ sự ảnh hưởng của yếu tố giá trong mỗi năm để nghiên cứu sự thay đổi thuần về khối lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ...
Chúng ta đã từng có hệ thống giá cố định 1982, giá so sánh 1989 và giá cố định 1989, và giá cố định 1994.
Các công thức xác định chỉ tiêu giá trị sản xuất:
Giá trị sản xuất của sản phẩm, của một ngành kinh tế theo giá cơ bản

=

Tổng chi phí sản xuất (giá thành)

+

Lợi tức thuần từ hoạt động kinh doanh





Giá trị sản xuất của sản phẩm, của một ngành kinh tế theo giá sản xuất

=
Giá trị sản xuất của sản phẩm, của một ngành kinh tế theo giá cơ bản

+
Thuế doanh thu hoặc VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu





Giá trị sản xuất của sản phẩm, của một ngành kinh tế theo giá sử dụng cuối cùng

=
Giá trị sản xuất của sản phẩm, của một ngành kinh tế theo giá sản xuất

+

Phí lưu thông thương nghiệp và phí vận tải
Chuyển đổi GDP và GDP đầu người sang tiền nước ngoài (ví dụ sang đô la Mỹ):
Mục đích của việc chuyển đổi hai chỉ tiêu này sang tiền nước ngoài là để so sánh quốc tế, giữa nước ta và các nước khác trên thế giới. Công thức chuyển đổi sang đồng đô la Mỹ như sau:

GDP của Việt nam
theo đô la Mỹ

GDP của Việt nam theo tiền Việt
=
----------------------------------------------

Hệ số quy đổi tiền Việt sang đô la Mỹ
Vấn đề phức tạp nhất trong công thức trên là xác định hệ số quy đổi tiền Việt sang đô la Mỹ như thế nào. Xuất phát từ mục đích nghiên cứu và so sánh khác nhau, các nhà kinh tế đã đề xuất nhiều phương pháp tính hệ số quy đổi khác nhau. Tuy nhiên, có hai hệ số quy đổi được áp dụng phổ biến là:
- Khi muốn so sánh thực trạng kinh tế và sức mạnh của nền kinh tế Việt nam trong quan hệ với kinh tế thế giới, thì dùng tỷ giá hối đoái bình quân năm giữa đồng Việt nam và đồng đô la Mỹ do Ngân hàng Nhà nước công bố theo thời gian.
- Khi muốn so sánh thu nhập và mức sống thực tế của người Việt nam với người nước ngoài thì dùng tỷ giá so sánh sức mua tương đương. Việc xác định tỷ giá này rất phức tạp, hiện nay chúng ta vẫn trong quá trình nghiên cứu, chưa công bố kết quả chính thức.
b) Các bảng cân đối chủ yếu trong hệ thống tài khoản quốc gia:
(1) Khái niệm chung:
Nguyên tắc cơ bản nhất của hệ thống tài khoản quốc gia là tất cả các chỉ tiêu phải tạo thành một hệ thống thống nhất và khớp nhau, trong đó tất cả các chỉ tiêu giống nhau trong các bảng, các khu vực của hệ thống phải có cùng định nghĩa, cùng khái niệm, cùng thành phần và cùng quy tắc kế toán.
Hệ thống tài khoản quốc gia bao gồm 5 khu vực thể chế lớn phụ thuộc vào vai trò, hành vi và mục tiêu của các đơn vị trong chúng. Đó là các hộ gia đình, các doanh nghiệp phi tài chính, các thể chế tài chính, các thể chế hành chính và các thể chế phi lợi nhuận phục vụ các gia đình. Ngoài ra, còn có một bộ phận khác phản ánh quan hệ giữa những đơn vị thường trú và những đơn vị không thường trú, được gọi là phần còn lại.
Hoạt động của các đơn vị được nhóm thành 4 loại lớn, gồm hoạt động về hàng hoá và dịch vụ (sản xuất và sử dụng hàng hoá và dịch vụ), hoạt động phân phối (thu nhập, thuế, chuyển giao), hoạt động tài chính (cho vay và thu hồi các khoản tài chính), và các hoạt động gắn với tài sản tích luỹ (tiêu dùng vốn cố định, khám phá và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tác động của thảm hoạ tự nhiên hay chiến tranh...).
Hệ thống tài khoản quốc gia bao gồm hai loại bảng tổng thể: Bảng các tài khoản kinh tế gộp và bảng cân đối nguồn và sử dụng hàng hoá và dịch vụ. Ngoài ra, còn có một loạt bảng chi tiết phản ánh các hoạt động đặc thù, như bảng quan hệ tài chính giữa các khu vực, bảng dân số và lao động... Dưới đây xin giới thiệu hai loại bảng tổng thể.
(2) Bảng các tài khoản kinh tế gộp:
Bảng các tài khoản kinh tế gộp bao gồm một tập hợp các tài khoản của các khu vực thể chế và phần còn lại. Bảng này còn được gọi là bảng vào ra.
Đối với mỗi khu vực, bảng vào ra đều phải xác định ba loại tài khoản là tài khoản thường xuyên, tài khoản tích luỹ và tài khoản tài sản. Thâm hụt hoặc thặng dư trong tài khoản này được đưa vào cân đối trong các tài khoản khác.
- Tài khoản thường xuyên hay vãng lai:
- Tài khoản tích luỹ:
- Tài khoản tài sản.:
(3) Bảng cân đối nguồn và sử dụng hàng hoá và dịch vụ:
Bảng này cung cấp các phân tích chi tiết về sản xuất theo ngành và các luồng của cải và dịch vụ theo sản phẩm. Bảng bao gồm tài khoản sản xuất trong đó các tiêu dùng trung gian được phân chia theo sản phẩm, và tài khoản khai thác của mỗi ngành.
Phần trên của bảng trình bày nguồn theo sản phẩm, gồm nhập khẩu, sản xuất của các ngành, thuế theo sản phẩm đã loại trừ các trợ cấp, chi phí thương mại và vận tải.
Phần tiếp của bảng trình bày sử dụng sản phẩm, gồm tiêu dùng trung gian của các ngành theo sản phẩm, xuất khẩu, tiêu dùng cuối cùng và đầu tư. Giá trị tăng thêm của các ngành được tính bằng cách lấy giá trị sản xuất của chúng trừ đi tiêu dùng trung gian.
Phần cuối của bảng trình bày các khoản lương, thuế đánh vào sản xuất và nhập khẩu (đã trừ trợ cấp), thu nhập ròng của các doanh nghiệp, tiêu dùng vốn cố định...
Bảng cân đối nguồn và sử dụng hàng hoá và dịch vụ phản ánh cả ba phương pháp tính GDP đã trình bày ở trên; do vậy, để các ô trong bảng khớp nhau, việc tính GDP theo 3 phương pháp cũng phải khớp nhau.
Dưới đây xin giới thiệu một số bảng gộp quan trọng nhất, thường được lấy từ Niên giám Thống kê hoặc được suy ra từ các bảng trong niên giám thống kê:
Bảng 1: Cân đối nguồn - sử dụng theo giá hiện hành (tỷ đồng):
Tên chỉ tiêu
1986
1987
...
2010
Tiêu dùng

9947,0


    Tiêu dùng cá nhân

8503,2


    Tiêu dùng chính phủ (trung ương)

1443,8


Đầu tư tài sản cố định

2727,0


    Tiêu dùng cá nhân

2030,0


    Tiêu dùng chính phủ (trung ương)

  697,0


Thay đổi dự trữ (tồn kho)

  109,5


Cầu nội địa

12783,5


Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ

  4710,9


Nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ

  5300,4


GDP theo giá thị trường

12194,0


Chênh lệch về thu nhập thường xuyên với nước ngoài

      54,2


Thu nhập quốc dân sẵn có

12248,2


          Lưu ý: Tiêu dùng cá nhân bao gồm tiêu dùng của tất cả các đơn vị ngoài chính phủ.
Bảng 2: Cân đối nguồn - sử dụng theo giá cố định 1986 (tỷ đồng):
Tên chỉ tiêu
1986
1987
...
2010
Tiêu dùng

9171,6


    Tiêu dùng cá nhân

7840,9


    Tiêu dùng chính phủ (trung ương)

1330,7


Đầu tư tài sản cố định

2555,0


    Tiêu dùng cá nhân




    Tiêu dùng chính phủ (trung ương)




Thay đổi dự trữ (tồn kho)

  208,2


Cầu nội địa

11934,8


Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ

  4417,4


Nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ

  4938,2


GDP theo giá thị trường

11414,0


Chênh lệch về thu nhập thường xuyên với nước ngoài

      51,2


Thu nhập quốc dân sẵn có

11465,2



Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng của nguồn và sử dụng (%):
Tên chỉ tiêu
1986
1987
...
2010
Tiêu dùng

3,2


    Tiêu dùng cá nhân

2,6


    Tiêu dùng chính phủ (trung ương)

6,9


Đầu tư tài sản cố định

    1,6


    Tiêu dùng cá nhân




    Tiêu dùng chính phủ (trung ương)




Thay đổi dự trữ (tồn kho)




Cầu nội địa

1,3


Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ

       -3,8


Nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ

       -8,3


GDP theo giá thị trường

3,9



Bảng 4: Thay đổi chỉ số giá của nguồn và sử dụng (năm 1986 là 100%)
Tên chỉ tiêu
1986
1987
...
2010
Tiêu dùng

108,5


    Tiêu dùng cá nhân

108,4


    Tiêu dùng chính phủ (trung ương)

108,5


Đầu tư tài sản cố định

106,7


    Tiêu dùng cá nhân




    Tiêu dùng chính phủ (trung ương)




Thay đổi dự trữ (tồn kho)




Cầu nội địa

107,1


Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ

106,6


Nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ

107,3


GDP theo giá thị trường

106,8


Bảng 5: Tiến triển theo ngành của GDP theo giá hiện hành (tỷ đồng)
Tên chỉ tiêu
1986
1987
...
2010
Khu vực nông lâm ngư nghiệp




   Nông nghiệp




   Lâm nghiệp




   Ngư nghiệp




Khu vực công nghiệp và xây dựng




   Công nghiệp khai thác




   Công nghiệp điện, ga, nước




   Công nghiệp chế biến




      Công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm




      Công nghiệp vật liệu xây dựng và thuỷ tinh




      Công nghiệp cơ khí và điện tử




      Công nghiệp hoá chất, cao su




      Công nghiệp dệt may




      Công nghiệp gỗ, giấy, da




   Công nghiệp xây dựng




Khu vực dịch vụ




   Giao thông vận tải và thông tin liên lạc




   Du lịch




   Thương mại




   Dịch vụ hành chính




   Ngân hàng, tài chính, bảo hiểm




   Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ




GDP theo giá nhân tố




Thuế gián tiếp trừ trợ cấp




GDP theo giá thị trường





Bảng 6: Tiến triển theo ngành của GDP theo giá cố định (tỷ đồng)
Tên chỉ tiêu
1986
1987
...
2010
Khu vực nông lâm ngư nghiệp




   Nông nghiệp




   Lâm nghiệp




   Ngư nghiệp




Khu vực công nghiệp và xây dựng




   Công nghiệp khai thác




   Công nghiệp điện, ga, nước




   Công nghiệp chế biến




      Công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm




      Công nghiệp vật liệu xây dựng và thuỷ tinh




      Công nghiệp cơ khí và điện tử




      Công nghiệp hoá chất, cao su




      Công nghiệp dệt may




      Công nghiệp gỗ, giấy, da




   Công nghiệp xây dựng




Khu vực dịch vụ




   Giao thông vận tải và thông tin liên lạc




   Du lịch




   Thương mại




   Dịch vụ hành chính




   Ngân hàng, tài chính, bảo hiểm




   Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ




GDP theo giá nhân tố




Thuế gián tiếp trừ trợ cấp




GDP theo giá thị trường





Bảng 7: Tiến triển của các chỉ số giá (năm 1986 = 100%)
Tên chỉ tiêu
1986
1987
...
2010
Khu vực nông lâm ngư nghiệp




   Nông nghiệp




   Lâm nghiệp




   Ngư nghiệp




Khu vực công nghiệp và xây dựng




   Công nghiệp khai thác




   Công nghiệp điện, ga, nước




   Công nghiệp chế biến




      Công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm




      Công nghiệp vật liệu xây dựng và thuỷ tinh




      Công nghiệp cơ khí và điện tử




      Công nghiệp hoá chất, cao su




      Công nghiệp dệt may




      Công nghiệp gỗ, giấy, da




   Công nghiệp xây dựng




Khu vực dịch vụ




   Giao thông vận tải và thông tin liên lạc




   Du lịch




   Thương mại




   Dịch vụ hành chính




   Ngân hàng, tài chính, bảo hiểm




   Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ




GDP theo giá nhân tố




Thuế gián tiếp trừ trợ cấp




GDP theo giá thị trường





Bảng 8: Tăng trưởng của các thành phần của GDP (%)
Tên chỉ tiêu
1986
1987
...
2010
Khu vực nông lâm ngư nghiệp




   Nông nghiệp




   Lâm nghiệp




   Ngư nghiệp




Khu vực công nghiệp và xây dựng




   Công nghiệp khai thác




   Công nghiệp điện, ga, nước




   Công nghiệp chế biến




      Công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm




      Công nghiệp vật liệu xây dựng và thuỷ tinh




      Công nghiệp cơ khí và điện tử




      Công nghiệp hoá chất, cao su




      Công nghiệp dệt may




      Công nghiệp gỗ, giấy, da




   Công nghiệp xây dựng




Khu vực dịch vụ




   Giao thông vận tải và thông tin liên lạc




   Du lịch




   Thương mại




   Dịch vụ hành chính




   Ngân hàng, tài chính, bảo hiểm




   Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ




GDP theo giá nhân tố




Thuế gián tiếp trừ trợ cấp




GDP theo giá thị trường




....

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét