Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2013

(7) HỒI KÝ KHRUSEV

HỒI KÝ KHRUSEV
Nhà xuất bản “VAGRIUS”, 1997 
Nguyễn Học (dịch từ bản tiếng Nga) 
Những năm đầu tiên sau chiến tranh
Năm 1944 tất cả Đông Ukraina được giải phóng khỏi tay bọn xâm lược Hittler và các đồng minh của Đức. Đàn ông trong độ tuổi được gọi vào Hồng quân, vì, khi quân ta tiến lên phía trước, bổ xung người chủ yếu là ở huy động những người trước đây nằm lại ở lãnh thổ bị địch chiếm. Những người này, đa số có hiểu biết về nghĩa vụ công dân, và không cần phải đặc biệt “thuyết phục” họ đi đánh nhau với Đức Hittler. Một phần những người nằm lại ở nhà - người già, tàn tật, và vô dụng với quân đội, chủ yếu phụ nữ, ngay lập tức phục hồi kinh tế quốc dân, đặc biệt nông nghiệp.
Trong công nghiệp, trước hết là than và luyện kim, một phần công nhân và nhân viên kỹ thuật không phải tham gia bộ đội. Tuy nhiên trong công nghiệp vẫn động viên nhiều phụ nữ, đặc biệt những cô gái trẻ. Đồng thời họ thích thú đi đến đó. Sự giải thích điều này bằng hai cách: một mặt, chủ nghĩa yêu nước và dân vận Đảng cộng sản đóng vai trò lớn rằng cần khôi phục công nghiệp, rằng đây là sự cứu toát duy nhất đáng giá, khả năng nâng cao mức sống nhân dân. Mặt khác, ở miền đông Ukraina, sự cung cấp dù sao chăng nữa cũng được tổ chức; chẳng hạn thực phẩm cho dân chúng là tốt hơn tại các vùng khác của Ukraina, đặc biệt năm 1946.


Phụ trách công nghiệp than là Egor Trofimovich Abakumov, một người rất am hiểu vùng Donbass được biệt phái đến chỗ chúng tôi. Lúc đó có một khoá học về xây dựng các mỏ nhỏ, khai thác các vỉa trên, hoặc, như các thợ mỏ gọi nó, những cái đuôi, nghĩa là những vỉa lộ thiên. Những mỏ không sâu trong chế độ cũ gọi không bẫy chuột. Đã hoạch định đưa hàng trăm mỏ như thế vào cơ giới hoá một phần những khai thác không sâu và những họng dốc để nhanh chóng có lượng than cần thiết. Và số than này đã nhận được!

Cũng khôi phục cả luyện kim, chế tạo máy, công nghiệp địa phương. Sự phục hồi diễn ra với nhịp độ nhanh. Sự kiên trì của mọi người có thể đáng kinh ngạc, họ có sự hiểu biết cần thiết để áp sát hết sức sao cho thời gian ngắn nhất làm hồi sinh công nghiệp và nông nghiệp. Chính là chiến tranh đã kết thúc, lễ mừng Chiến thắng và sự sung sướng của nhân dân dần dần qua đi, những người lành lặn quay về nhà máy, hầm mỏ, nông trường và nông trang. Sự phục hồi bây giờ diễn ra còn với nhịp độ nhanh hơn. Nhưng phải qua trở ngại.

Năm 1946, hạn hán lớn, nông nghiệp Ukraina thiệt hại nặng. Thiệt hại cả ở những nước cộng hoà khác, mà tôi chỉ nói chút ít về nó. Nhưng Ukraina thì tôi biết. Đến mùa thu năm ấy, đã nhìn thấy rõ vụ mùa tệ hại khủng khiếp. Tôi làm tất cả Stalin kịp thời hiểu điều này. Chưa có vụ mùa nào bị điều kiện thời tiết nặng nề như thế này, ngoài ra, cơ giới hoá nông nghiệp còn yếu, không có máy kéo, ngựa, bò do chiến tranh tàn phá. Không đủ sức kéo. Tổ chức công việc cũng rất kém; bộ đội phục viên tham gia công việc, nhưng vẫn chưa quen chịu chỗ của mình, người thì và mất mát tay nghề, người thì hoàn toàn không có. Do chúng tôi đã có một vụ mùa rất tệ.

Tôi không nhớ rõ, khi đó chúng tôi đã đặt một kế hoạch: một khoảng 400 triệu pud hoặc thậm chí hơn. kế hoạch được lập ra bằng ý chí, mặc dù ở các cơ quan báo chí ở các tài liệu chính thức, nó “được dựa trên” những số liệu khoa học, nghĩa là xoá bỏ thước mét và tính toán vụ mùa theo sinh học với trừ hao mất mát riêng, do tiêu tốn công của mọi người, gia súc và trưng thu hàng hoá. Khi ấy không xuất phát chủ yếu là sẽ trồng ra sao, mà là về nguyên tắc có thể nhận được bao nhiêu, bắt nhân dân nộp đưa vào kho nhà nước. Và thế là bắt đầu việc bắt nộp Tôi thấy đe doạ thảm hoạ. Tất cả sẽ kết thúc như thế nào, khó đoán trước được.

Khi triển khai thu mua và hoàn toàn thấy rõ vụ mùa, có thể ít nhiều chính xác xác định khả năng thu mua ngũ cốc vào quỹ nhà nước. Để làm điều này đã phải áp dụng tất cả các biện pháp có thể áp dụng được. Nông trang viên hiểu biết phải hoàn thành nghĩa vụ của mình và người ta đã làm tất cả hết sức mình để cung cấp bánh mỳ cho đất nước. Dân Ukraina hoàn toàn chịu khổ sở tình cảm như thế cả trong nội chiến, và cả khi tập thể hoá, cả khi nước cộng hoà này bị chiếm đống. Họ hiểu, đất nước cần bánh mỳ, và hiểu giá của cho nó, hiểu rằng không có bánh mỳ không thể phục hồi công nghiệp. Ngoài ra, họ hao mòn tín nhiệm với Đảng cộng sản, dưới sự lãnh đạo của đảng đã mang lại chiến thắng. Nhưng giới chóp bu thì lại khác. Tôi nhận một bức thư của Chủ tịch nông trang rất lâm ly. Chẳng hạn, ngắn gọn:

- Thưa đồng chí Khrusev, chúng tôi hoàn thành kế hoạch thu mua lúa mỳ hoàn toàn, đã giao nộp tất cả, và bây giờ chúng tôi chẳng còn lại một cái gì. Chúng tôi tin rằng cường quốc và Đảng không quên chúng tôi, và họ sẽ giúp đỡ chúng tôi.

Tác giả bức thư, tiếp theo, cho rằng số phận nông dân phụ thuộc vào tôi. Chính lúc ấy tôi là Chủ tịch Hội đồng Dân uỷ Ukraina và Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản(b) Ukraina, và ông nghĩ rằng tôi cầm đầu cường quốc Ukraina, thì tôi không quên nông dân. Tôi thấy ông bị lừa. Chính tôi không thể làm được một cái gì, với tất cả lòng mong muốn của mình, vì rằng, khi bánh mỳ giao cho điểm nhận của nhà nước, thì tôi không có quyền phân phối nó nữa, còn bản thân tôi cũng buộc phải van nài để lại một lượng ngũ cốc nào đấy mà chúng tôi cần. Một chút gì cho chúng tôi, nhưng ít.

Tôi cũng thấy rằng kế hoạch nhà nước về bánh mỳ sẽ không thực hiện được. Tôi gặp một nhóm các nhà nông học và kinh tế để tính toán. Đứng đầu nhóm là Stachenko, một cán bộ giỏi, một người trung thực. Tôi nghĩ nếu đệ trình thẳng thắn tất cả cho Stalin và chứng minh sự tưởng những suy nghĩ của mình vào những con số thì Stalin sẽ tin chúng tôi. Và tôi có được trong một số vấn đề, khắc phục sự chống đối quan liêu của bộ máy và khiếu nại trực tiếp lên Stalin. Nếu tôi hành động trước, bằng cách gom góp tư liệu và xây dựng một cách logic những chứng cớ của mình, thì sự đúng đắn của nó sẽ nổi lên. Lúc đó Stalin ủng hộ tôi. Tôi hy vọng rằng lần này tôi cũng chứng minh rằng chúng tôi là đúng, và Stalin hiểu rằng dây không phải là sự phá hoại ngầm. Loại thuật ngữ này không bắt buộc tôi phải chờ đợi ở Moskva, nơi luôn luôn có biện minh đối với sự đàn áp, và đối với sự trưng thu sản phẩm nông trang.

Bây giờ tôi không nhớ, lượng bánh mỳ tôi tính toán khi đó có thể thu mua luôn luôn bao nhiêu. Hình như, trong thư mà chúng tôi trình lên trên, chúng tôi viết là 180 hoặc hơn 200 triệu pud. Đây là, tất nhiên, rất ít, vì rằng trước chiến tranh Ukraina có mức hàng năm 500 triệu pud. Mọi người biết rõ ràng là đất nước đang cực kỳ cần thực phẩm. Và không những đối với đòi hỏi trong nước,: Stalin muốn giúp đỡ các nước cộng hoà mới, và đặc biệt Ba Lan và Đông Đức, những nước này không thể nhúc nhích nếu thiếu sự giúp đỡ của chúng tôi. Stalin thấy rõ việc xây dựng các nước đồng minh tương lai cả trong điều kiện hoà bình, và cả trong những trường hợp khác. Ông cũng muốn khoác áo tổng chỉ huy quân sự của các cuộc hành binh có thể trong tương lai.

Hiện thời cần giải quyết nạn đói. Tôi gửi tài liệu đã chuẩn bị cho Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô phơi bày sự nghèo đói của chúng tôi. Chúng tôi muốn người ta cho chúng tôi khoai tây với sự đảm bảo từ trung ương không những cho thành phố mà và cho cả dân chúng nông thôn một lượng thực phẩm và đôi chỗ tổ chức thức ăn cho những người đang bị đói. Tôi không nhớ bao nhiêu triệu pud khoai tây mà chúng tôi đề nghị. Nhưng tôi nghi ngờ nó thành công, vì tôi biết Stalin, sự tàn nhẫn và thô lỗ của ông. Mọi người cố gắng thuyết phục tôi:

- Chúng tôi thoả thuận rằng nếu ông ghi tên Stalin lên tài liệu này (tất cả những tài liệu như thế trực chỉ Stalin), thì Stalin thậm chí không cầm nó đâu. Chúng tôi quy ước với Kosygin (khi đó Kosygin phụ trách vấn đề này). Ông nói rằng chừng này triệu khoai tây có thể cho chúng tôi”.

Tôi dao động lâu, nhưng cuối cùng cũng ký tài liệu. Khi tài liệu về Moskva, thì Stalin nghỉ ở Sochi. Malenkov và Beria biết tài liệu. Tôi nghĩ rằng họ quyết định dùng sự việc để làm mất uy tín tôi trước Stalin, và thay thế bằng giải quyết vấn đề (họ có thể khi đó giải quyết các vấn đề mang tên Stalin: nhiều tài liệu, mà Stalin không nhìn, nhưng cũng được phát đi với chữ ký của ông), họ gửi tài liệu của chúng tôi cho Stalin ở Sochi. Stalin gửi cho tôi một bức điện lời lẽ thô lỗ, thoá mạ nói rằng tôi là người đa nghi: tôi viết thư, trong đó tôi chứng minh rằng Ukraina không thể thực hiện được thu mua, và tôi đề nghị số lượng lớn khoai tây để nuôi sống mọi người. Bức điện này làm cho tôi chết điếng. Tôi hiểu thảm hoạ treo lơ lửng không những trên đầu tôi, mà còn trên đầu nhân dân Ukraina, trên đầu nước cộng hoà: nạn đói không tránh khỏi và chẳng bao lâu nữa bắt đầu.

Stalin từ Sochi quay về Moskva, và tôi từ Kiev đến Moskva. Tôi dã nhận quát mắng, chỉ có thể như thế thôi. Tôi cũng đã sẵn sàng tất cả, thậm chí bị liệt vào hàng ngũ kẻ thù nhân dân. Lúc đó việc này được làm chỉ trong nháy mắt - chỉ kịp chớp mắt, là cửa khép lại, và anh có mặt ở Lubyanka[i]. Mặc dù tôi tin những tài liệu mà tôi gửi, đã phản ánh tình thế thực của sự việc và Ukraina cần được giúp đỡ, nhưng chỉ có thế mà Stalin nổi cơn giận. Chúng tôi không nhận được một cái gì cả từ trung ương. Nạn đói kéo đến, đã có tín hiệu cho thấy có người chết đói. Đây đó bắt đầu có chuyện ăn thịt người. Người ta báo cáo tôi rằng họ tìm thấy đầu và bàn chân người dưới cầu Vasinkov (một thành phố nhỏ của Kiev), nghĩa là xác đã đã thành đồ ăn. Sau đó trường hợp như thế cũng thường xuyên xảy ra.

Kirichenko (khi đó là bí thư thứ nhất tỉnh uỷ Odessa) kể rằng khi ông đến kiểm tra một nông trang, như mọi người qua mùa đông, họ kể cho ông nghe để ông tới gặp một nữ nông trang viên. Ông nói:

- Tôi gặp một cảnh kinh khủng. Tôi thấy người phụ nữ này đang cắt xác đứa con của mình, không phải thằng bé, mà là một con bé, và bà ta lẩm bẩm: “Thế là người ta ăn hết con bé Maneska rồi, còn bây giờ ăn Vaneska”. Còn đủ thời gian.

Người phụ nữ này bị loạn óc vì đói và xẻ thịt những đứa con của mình. Anh có thể hình dung được điều này không?

Tôi báo cáo tất cả điều này cho Stalin, nhưng ông trả lời trong sự cơn giận dữ:

- Đồ nhu nhược! Người ta lừa ông, cố tình báo cáo để làm mủi lòng và che dấu nguồn dự trữ.

Có thể Stalin nhận được những bằng chứng khác, lúc đó ông mới tin hơn? Tôi không biết. Tôi biết rằng ông nhìn nhận tôi dường như tôi bị ngả theo ảnh hưởng địa phương Ukraina, rằng tôi bị áp lực và tôi chút nữa thành người dân tộc chủ nghĩa, không xứng đáng sự tin cậy. Với thông báo của tôi, Stalin bắt đầu có quan hệ thận trọng thấy rõ. Nhưng những bằng chứng khác từ đâu đến tay ông? Báo cáo những chứng cớ ấy cho là những nhân viên Cheka hoặc những thanh tra của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản(b), những người này đi khắp mọi vùng. Những thông tin đúng như thế có thể lọt đến tai Stalin, nhưng thông thường người ta rất sợ đưa nó và ỉm đi để “không chạm trán”, không phải chịu trận, vì rằng Stalin phản ứng rất khắc nghiệt. Stalin cho rằng tất cả mọi người dưới trướng ông đều thịnh vượng. Như Sevchenko viết: “Từ người Moldavi đến người Phần Lan tất cả mọi tiếng nói, mọi người đều ngậm miệng, thịnh vượng”.

Chỉ có điều Sevchenko viết thời gian Nicolai I, con bây giờ Iosif I.

Stalin đặt vấn đề cần triệu tập phiên họp toàn thể Ban chấp hành Trung ương Đảng bàn về nông nghiệp. Quả là tôi không nhớ, bao nhiêu năm không tổ chức phiên họp toàn thể. Có lẽ, từ năm 1938 khi bàn cãi vấn đề đấu tranh với kẻ thù nhân dân, còn sau đó có sự thái quá trong cuộc đấu tranh này. Stalin khi đó đóng vai trò cao thượng chống sự thái quá, do chính ông tổ chức. Như vậy, cuối cùng bây giờ ông đặt vấn đề trước phiên họp toàn thể về việc đẩy mạnh nông nghiệp. Bắt đầu bàn cãi xem trao cho ai làm báo cáo. Tại cuộc họp Bộ chính trị, Stalin lập luận đọc to thành tiếng:

- Ai làm báo cáo?

Khi đó phụ trách nông nghiệp là Malenkov.

- Malenkov? Ông phụ trách việc này. Ông làm báo cáo như thế nào, nếu thậm chí không biết cả từ ngữ về nông nghiệp?

Việc này liên quan đến Malenkov. Hoàn toàn đúng. Lạ lùng ở chỗ Stalin biết Malenkov như thế, mà còn trao cho ông ta phụ trách nông nghiệp. Điều này tôi để ý từ lâu. Trả lời khó. Ở Stalin, mọi thứ đều có thể…

Bỗng nhiên ông nói với tôi:

- Ông sẽ làm báo cáo.

Tôi khiếp sợ việc uỷ nhiệm này:

- Đồng chí Stalin, xin đừng trao cho tôi, tôi xin ông.

- Vì sao?

- Tôi có thể làm báo cáo về Ukraina, ví tôi biết nó. Nhưng tôi không biết Liên bang Nga. Về Siberi nói chung tôi không hiểu, tôi chưa bao giờ ở đó và chưa làm việc này. Nói riêng, trước Ukraina tôi nói chung chưa bao giờ phụ trách nông nghiệp, bản thân tôi là công nhân, chỉ quan tâm nhiều đến công nghiệp, cũng có phụ trách kinh tế công cộng ở Moskva. Nhưng Trung Á? Đúng là tôi chưa bao giờ thấy bông mọc như thế nào.

Stalin nài:

- Không, Ông sẽ làm báo cáo.

- Không đâu, đồng chí Stalin, tôi thiết tha đề nghị ông, tha cho tôi. Tôi không muốn làm phiền Ban chấp hành Trung ương, không muốn đặt mình vào tình thế ngốc nghéch dây vào việc làm báo cáo vấn đề mà tôi đặc biệt không biết. Xin trình bày trước phiên họp toàn thể là tôi không thể”.

Stalin lại nghĩ:

- Thôi, được, trao cho Andreev.

Andreev có thời phụ trách nông nghiệp và tự phụ trong Đảng là người am hiểu nông thôn. So với các uỷ viên khác Bộ chính trị, ông, tất nhiên, biết nông nghiệp tốt hơn, mặc dù tôi không đáng giá cao kiến thức của ông. Ông là người tương đối khô khan và là người hình thức, thường sử dụng các tờ trình và làm các thông báo của mình trên cơ sở tờ trình của những khác am hiểu nông nghiệp. Trong mọi trường hợp, tôi hài lòng tôi thoát được thế bí. Và Andrey Andreev chắc chắn là người báo cáo Ban chấp hành Trung ương tại phiên họp toàn thể. Lúc đó ông là uỷ viên Bộ chính trị và bí thư Ban chấp hành Trung ương. Còn có thêm một Uỷ ban về nông nghiệp - chồng chéo giữa Ban chấp hành Trung ương và Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Andreev là Chủ tịch hoặc uỷ viên Đảng uỷ Uỷ ban. Người thay thế này là do Stalin cử, nhưng tôi không biết ông là bị buộc phải làm và vai trò của ông được kết luận cụ thể.

Sau một thời gian, khai mạc phiên họp toàn thể. Andrey Andreev làm xong báo cáo. Báo cáo đâu ra đấy, hàng lối rõ ràng, có logic, như ông thường làm. Phiên họp toàn thể tiến hành ở gian Sverlov, Kreml, Đoàn Chủ tịch nhỏ chỉ có các uỷ viên Bộ chính trị ngồi. Tôi ngồi cạnh Stalin và thấy, ông chăm chú nghe. Tuyên bố nghỉ. Chúng tôi chạy ùa vào phòng nghỉ nơi các uỷ viên Đoàn chủ tịch uống trà. Có lần lại ăn trưa, cùng trao đổi những suy nghĩ. Ngồi ở, chúng tôi nhâm nhi trà, và Stalin hỏi tôi:

- Anh có ý kiến gì về bản báo cáo?

Tôi nói:

- Người báo cáo đã làm sáng tỏ tất cả các vấn đề.

- Nhưng ông ngồi hoàn toàn bàng quan. Tôi đã quan sát ông.

- Nếu ông muốn tôi nói hết sự thật chô ông, thì, theo tôi, trong báo cáo cần nêu ra những vấn đề khác. Có đụng chạm đến tất cả những khuôn sáo.

Stalin nổi khùng:

- Thế mà ông từ chối báo cáo, còn bây giờ thì lại chỉ trích.

Tôi thấy Stalin không hài lòng về tôi.

Kết thúc báo cáo. Nhiều người phát biểu tranh luận, tôi cũng thế. Hoàn toàn tôi không nhớ, tôi đã đề cập các vấn đề tôi gì, trước tiên, tôi nói công việc phục hồi kinh tế Ukraina. Tôi nói chỉ có về điểm này thôi. Lúc đó tôi coi quan trọng nhất là vấn đề cơ giới hoá và hạt giống. Khi đó luật “điều răn đầu tiên” của nông trang viên có hiệu lực: đầu tiên thực hiện nghĩa vụ cung cấp cho nhà nước, sau đó hạt giống và quỹ, sau đó - phân bố theo lao động. Tôi cho rằng cần huỷ bỏ điều răn này do Stalin nghĩ ra, và trước tiên phải đủ hạt giống. Dưới chế độ cũ, nông dân cá thể, thà chết, không ăn hạt giống, vì rằng đây là tương lai, đây là cuộc sống. Chúng tôi thu những hạt giống này của nông dân, sau đó bắt buộc đưa cho họ gieo hạt? Nhưng cũng không biết, hạt giống này là hạt loại gì, mọc ở đâu, chừng mực nào họ quen thổ nhưỡng.

Lời phát biểu của tôi làm Stalin nổi giận. Một Uỷ ban đặc biệt được thành lập do Andrey Andreevlàm Chủ tịch, nhưng tôi cũng ở trong hội đồng này. Nhưng còn thêm một đám mây đen nặng nề treo trên đầu tôi sau lời phát biểu của Malssev, một cán bộ dầy dạn kinh nghiệm, quả là một người hiểu rõ nông nghiệp Ural. Ông lãnh đạo đạo tuyệt vời kinh tế của mình, kể rằng công việc ở họ ra sao và ông thu hoạch luá mỳ vụ xuân tốt như thế nào. Ngay khi ông nói về luá mỳ vụ xuân, tôi lập tức cảm thấy cú giáng vào chỗ đau của tôi. Tôi biết rằng Stalin, không sắp xếp, lôi ra vấn đề luá mỳ vụ xuân và quăng nó vào mặt tôi. Tôi phát biểu chống việc gieo luá mỳ vụ xuân theo một trật tự nhất định, nó sản lượng thấp tại Ukraina, đặc biệt ở miền nam, mặc dù ở một số nông trang, nó thu được cũng không tồi. Vì thế tôi cho rằng cứ để cho một số nông trang nào có thể gieo nó, nhưng không ghi nhất thiết ghi vào quyết định rằng mọi ông trang cần phải trong phần trăm xác định gieo luá mỳ vụ xuân: chính có lần thậm chí hạt giống không mọc. Stalin không biết điều này và không muốn biết. Mặc dù trước chiến tranh tôi có lần báo cáo ông về luá mỳ vụ xuân, và khi đó ông đồng ý với tôi, sau đó được chấp nhận quyết định không nhất thiết tất cả nông trang Ukraina gieo luá mỳ vụ xuân.

Ngay khi tuyên bố nghỉ và chúng tôi đi vào phòng nghỉ, Stalin cáu và độc ác nói vào mặt tôi:

- Đã nghe, Malssev nói gì chưa?

- Đúng, đồng chí Stalin, nhưng ông ta nói về nói Ural. Nếu tại Ukraina, cây lương thực có sản lượng cao nhất- lúa mì thu, thì ở vùng Ural hoàn toàn không gieo được nó, mà ở Ural chỉ gieo được luá mỳ vụ xuân. Họ đã nghiên cứu nó, biết gieo trồng nó và nhận được vụ mùa tốt. Đúng và điều này không phải tất cả là kinh tế. Malssev - đây là thợ cả, viện sỹ trong công việc của mình.

- Không, không, nếu ở đó vụ xuân cho thu hoạch như vậy, thì chỗ ông - và Stalin giáng vào bụng tôi - đất đen dày như thế, thì vụ mùa còn phải tốt hơn. Phải viết vào nghị quyết.

Tôi nói:

- Nếu viết, thì cứ viết rằng tôi phản đối. Mọi người tất cả đều biết tôi chống luá mỳ vụ xuân. Nhưng nếu các ông cứ coi như thế, thì khi đó hãy viết cả Bắc Kavkaz và tỉnh Rostov. Họ cũng ở cùng tình thế giống chúng tôi.

- Không, chúng tôi viết chỉ cho ông thôi!

Dường như, tôi cần phải nảy ra sáng kiến để người khác cũng đi theo tôi. Uỷ ban nói trên làm việc, khi bàn cãi vấn đề này, tôi cũng chấp nhận tham gia, nhưng không đi đến cuối. Phiên họp toàn thể kết thúc, tất cả về địa phương mình, và tôi cũng phải ra về. Ký nghị quyết này chỉ có Malenkov và Andreev.

Khi tôi ra về, thì Uỷ ban đặt vấn đề cần bãi bỏ quyết định về “điều răn đầu tiên” của nông trang viên, và đề nghị quỹ hạt giống cho gieo song song ngũ cốc nhà nước ở một tỷ lệ nhất định. Tất nhiên có sự nhượng bộ từ phía tôi. Nhưng tôi cho rằng thậm chí cũng có ích nói chung không cái gì còn tại cảо. Tất cả theo phần trăn hạt của và nhà nước, và quỹ hạt. Tôi ra về. Sau vài ngày Malenkov gọi cho tôi và nói:

- Nghị quyết đã xong. Đề nghị của anh về thứ tự gieo quỹ hạt ở nông trang và nong trường trong nghị quyết không có, chúng tôi sẽ báo cáo Stalin. Anh nghĩ sao, báo cáo đề nghị của anh riêng biệt hay hoàn toàn không nói gì cho ông ấy?

Rõ ràng đây là vấn đề khiêu khích. Mọi người kể cả biết rằng tôi đưa vấn đề này ra Uỷ ban, đấu tranh vì nó, còn bây giờ, khi đặt vấn đề, có báo cáo cho Stalin hay không, nếu như tôi nói không báo cáo, té ra tôi nhát gan. Tôi nói:

- Không, đồng chí Malenkov. Tôi đề nghị trình đồng chí cho Stalin quan điểm của tôi.

- Được!

Họ trình lên. Từ cuộc gọi mới và Malenkov, tôi biết Stalin rất bực mình và không chấp nhận đề nghị của tôi. Stalin nổi khùng thật sự, khi biết về điều này. Sau phiên họp toàn thể, Stalin đặt vấn đề phải giúp đỡ Ukraina:

- Phải củng cố Khrusev, giúp đỡ ông ta. Ukraina thì tiêu điều, mà đây là một nước cộng hoà lớn và có giá trị đất nước.

Ông nghiêng hướng nào?

- Tôi cho rằng phải cử Kaganovich đến đó, giúp Khrusev. Ông nghĩ thế nào? - Ông hỏi, khi nói chuyện với tôi.

Tôi trả lời:

- Kaganovich từng là bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản(b) Ukraina, biết Ukraina. Tất nhiên Ukraina - đây là một đất nước đủ không những cho hai người mà còn cho cả hàng chục người.

- Được, cử đến đó Kaganovich và Patolichev.

Patolichev có thời bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản toàn Nga (b). Tôi trả lời:

- Xin cứ việc, tốt thôi.

Và ghi như thế. Stalin đề nghị tách đôi chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Ukraina và Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản(b) Ukraina. Có thời người ta hợp nhất những chức vụ này, nhưng khi đó tôi chứng minh không cần làm điều này. Điều đó được làm tại Ukraina và Belorussia. Tôi không biết các nước cộng hoà khác có thế không. Stalin đề nghị:

- Khrusev sẽ là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Ukraina, còn Kaganovich - Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương. Patolichev sẽ bí thư Ban chấp hành Trung ương về nông nghiệp.

Tôi lại nói:

- Tốt.

Chúng tôi họp phiên họp toàn thể tại Ukraina. Phiên họp toàn thể chuẩn y sự bổ nhiệm, mỗi người ngồi tại chỗ của mình và phụ trách công việc của mình.

- Trước hết - tôi nói với Kaganovich và Patolichev, chúng tôi phải chuẩn bị trồng trọt. Chúng tôi không còn hạt. Ngoài ra, chúng tôi phải nhận một cái gì đó để nuôi dân: họ đang chết đói, xuất hiện việc ăn thịt người. Không thể nói trồng trọt thế nào, nếu chúng tôi không tổ chức thực phẩm xã hội. Chưa chắc bây giờ chúng tôi nhận được lượng ngũ cốc, để cho vay, nuôi dân để họ không chết đói. Rồi cả hạt giống cũng phải nhận.

Chúng tôi đặt vấn đề trước Moskva. Để đảm bảo vụ mùa năm 1947 và đặt hạt giống năm 1948, phải cấp tốc nhận được hạt giống. Nếu chúng tôi không nhận hạt giống, chúng tôi không làm được gì cả, vì rằng người ta đã chở đi mọi thứ từ nông thôn theo điều răn đầu tiên do Stalin nghĩ ra.

Chúng tôi một lần nữa yêu cầu Stalin và nhận một lượng hạt và thực phẩm. Trời đã sang tháng hai. Lúc ấy ở miền nam bắt đầu lác đác gieo hạt, trong tháng ba nhiều nông trang phía nam gieo lúa mỳ. Thế là tháng ba, đáng ra chúng tôi phải chuẩn bị gieo đại trà ở miền nam, con ở tỉnh Kiev kết thúc gieo hạt vào tháng tư. Tôi nói với Kaganovich:

- Hãy nghĩ cái gì đề làm chứ.

Ông nói:

- Phải đi khắp Ukraina.

Tôi trả lời:

- Phải, nhưng điều này bây giờ không phải là chính. trước đây anh không ở Ukraina, mà giờ lại đi, nhưng tôi nằm lại Kiev. Bây giờ không quan trọng không phải là tôi đi hoặc tôi sẽ ở đâu đó trong một, hai, ba hoặc năm nông trang. Điều này không có giá trị gì hết. Người ta chuyển Xô hạt giống bằng tầu hoả, hất chúng từ các tỉnh, còn từ tỉnh hất về nông trang - đấy mới là điều chính, mà thành công trồng trọt phụ thuộc vào.

Chúng tôi cũng thoả thuận như thế. Kaganovich đi đến tỉnh Poltava, tôi nằm lại ở Kievđiều phối qua điện thoại - thúc đẩy hạt giống và chuyên chở, liên quan với sự đảm bảo trồng trọt: phụ tùng, nhiên liệu và dầu bôi trơn.

Kaganovich, khi đi thăm nông trang, tin rằng chức vụ của ông Bí thư thứ nhất bắt buộc với nhiều người: tình thế rất nặng nề, nhiều nông trang viên làm ăn láng cháng, không có khả năng làm việc, kiệt quệ sức lực vì đói. Sau đó ông chia xẻ với tôi ấn tượng về một nông trang và Chủ tịch nông trang này Moginichenko.

- Ông là người thế nào, tôi không hiểu. Nghiệt ngã, kiên trì. Có lẽ ông ta sẽ có vụ mùa. Khi tôi ra đồng, mọi người đang cày ruộng Tôi nhìn thấy rằng đất cày ít quá và nói:

- Sao các anh cày ít thế?

Cần phải biết Kaganovich để hiểu khi ông nói: nạt nộ Chủ tịch nông trang. Nhưng ông chủ tịch, người hiểu biết công việc của mình, trả lời:

- Bò cũng phải ăn, người cũng phải ăn.

- Bây giờ anh cày ít, rồi mai sau anh xin bánh mỳ của nhà nước?

- Tôi á, không bao giờ, đồng chí Kaganovich, tôi không xin bánh mỳ của nhà nước. Chính tôi cho nhà nước bánh mỳ.

Từ trước tôi đã đề nghị Kaganovich:

- Anh đến làng, đi cùng với Koval. Là nhà nông học, ông ta biết rõ nông nghiệp, và vì thế anh đề nghị ông vào hội đồng, ông ta sẽ bầy cho anh. Đây là người biết công việc của mình.

Koval lúc đó là Bộ trưởng ruộng đất CHXHCN Ukraina. Và Koval nhìn thấy, “đánh chúng tôi”, đánh Bí thư thứ nhất, và ai đánh? Chủ tịch nông trang. Ông nói với tay chủ tịch:

- Ông nói gì thế, đồng chí Mogininchenko? Tôi - nhà nông học, Bộ trưởng ruộng đất Ukraina, và tôi cho rằng anh cày bừa không đúng.

Mogininchenko ngó nhìn ông và trả lời:

- Thế ra ông là nhà nông học và Bộ trưởng? Tôi, як трэба, так và tôi sẽ gieo.

Và còn lại ở sự tin tưởng của mình. Sau một năm tôi đi đến và làm quen với ông và nông trang xem. Dúng, con người này quả là biết việc của mình. Tôi nhìn thấy nông trang giàu có, không những không còn tồn nợ thuế, mà chỉ nửa năm trước còn giao nộp trước cho nhà nước tất cả thực phẩm nông nghiệp.

Kaganovich lo ngại cái gì? Kaganovich nói:

- Tôi sợ quả là ở ông ta sẽ có một vụ mùa tốt theo việc cày bừa nhỏ.

Vấn đề là ở chỗ Kaganovich nhúng tay vào cuộc đấu tranh chống cày nhỏ. Đứng lúc đó đang tiến hành đúng những bản án của toà án chống lại dụng cụ bukker đối với lớp đất cày trên mặt đất trồng. Người ta huỷ bỏ và tiêu diệt những người ủng hộ cày đất bằng bukker. Nhưng bỗng nhiên Kaganovich bắt gặp cày nhỏ. Chống lại luật pháp! Nhân thể nói thêm, có thời gian ở tỉnh Saratov phát triển thuyết cày bukker, và có giáo sư bị thiệt hại vì nó, bị kết án nghiêm khắc.

Thế là một lần nữa bắt đầu những hoạt động chung của chúng tôi với Kaganovich, bây giờ chính tại Ukraina. Ông tìm khả năng nào đấy để thể hiện mình và quyết định rằng cần trội hơn rằng Ukraina vượt mức kế hoạch về tăng sản phẩm công nghiệp, đặc biệt công nghiệp địa phương. Khi Uỷ ban kế hoạch CHXHCN Ukraina đề nghị những con số, tôi nhìn chúng trước (vì là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) và đưa ra tại phiên họp Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản(b) Ukraina. Kaganovich tại phiên họp luôn nhìn vào những con số, rồi nhìn tôi xem tôi có đồng ý với ông không? Tôi nói:

- Lazar Moiseevich, có thể chấp nhận những con số này, có thể.

- Không, anh xem đi, tăng trưởng như thế nào!” - Đây không phải là mức tăng trưởng hàng năm trong điều kiện bình thường, còn kế hoạch hàng năm phục hồi công nghiệp và tăng trưởng sản xuất sản phẩm trên cơ sở này. Vì thế điều này là hơi mạnh. Năm qua chúng tôi đã thêm phần trăm thế này.

Nhưng thay việc tăng con số, ông đồng ý chấp nhận nó, hoặc sợ, những con số ấy đảm bảo ông không bị đổ: ông không muốn nhận kế hoạch, mà sẽ không được hoàn thành, mà muốn kế hoạch thấp hơn thực hiện vượt mức nó. Dễ nhất là nhét những con số đã hạ thấp vào kế hoạch, còn sau đó hét lên rằng kế hoạch không những được hoàn thành, mà còn hoàn thành vượt mức. Đáng tiếc, điều này là cách làm gì rất phổ biến hoạt động trong kinh tế chúng tôi. Tôi nghĩ rằng bây giờ cách này được sử dụng tương đối rộng rãi.

Tôi không gặp may: khi đó tôi bị cảm và bị viêm thần kinh toạ chân, nằm thở ôxy, chật vật sống sót. Điều này ở mức độ nào đấy giúp Kaganovich nhận khả năng quay về những hoạt động của mình không cân do dự, vì rằng tôi dù sao chăng nữa liên quan với ông và ông buộc phải coi trọng tôi. Nhưng ông quá trớn, đồng thời tự cho mình được phép tục tằn. Đúng tục tằn. Ông xử sự chẳng hạn đối với Patolichev đến nỗi, ông này đến gặp tôi, khi tôi còn nằm trên giường, không lâu, sau cuộc khủng hoảng, và than vãn:

- Tôi không thể! Tôi không biết ra sao nữa.

Sau đó ông không kìm được và viết một bức thư cho Stalin yêu cầu rút ông khỏi công việc tại Ukraina, vì rằng ông không thể sống bên cạnh Kaganovich. Người ta cử ông, có lẽ, về công tác ở Rostov. Patolichev ra đi từ Ukraina.

Sức khoẻ của tôi hồi phục. Tôi vẫn còn nằm, có lẽ, hai tháng, hoặc hơn, và quay về công việc. Tuy nhiên và tôi có những quan hệ rất xấu với Kaganovich, thực chất những quan hệ không chịu nổi. Ông triển khai những hoạt động điên cuồng theo hai hướng: chống những người dân tộc chủ nghĩa Ukraina và chống người Do Thái. Chính ông là người người Do Thái, và chống người Do Thái? Có thể là, ông có hướng chống những người Do Thái có quan hệ hữu nghị với tôi? Nhanh chóng, đúng như thế. Làm việc ở chỗ chúng tôi, nói riêng, Trokunov chủ bút một tờ báo. Kaganovich cách chức Trokunov. Ông không những khinh rẻ Trokunov, mà còn thật sự nhạo báng ông. Trokunov là một người trung thực, trong thời gian chiến tranh chủ bút một tờ báo mặt trận, và trong cuộc thi các báo mặt trận người ta thừa nhận báo ông hay hơn. Tôi nhớ Trokunov, còn về Yuzovk, khi tôi học khoa lao động, Yuzovk cũng làm việc ở báo. Hình như, thậm chí tôi bảo đảm cho ông, khi ông vào đảng.

Cái gì quan hệ với những người dân tộc chủ nghĩa, то, khi tôi đứng dậy được sau trận ốm, những lời phàn nàn của nhiều người về tôi ngay lập tức đến. Nó đụng chạm đến các vấn đề tính cách chính trị, và tôi là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng thực tế không quan tâm đến. Các vấn đề này nằm thẩm quyền ban lãnh đạo Đảng nước cộng hoà. Ban chấp hành Trung ương chúng tôi xem xét chúng, đôi lúc sự việc đến cả tôi, nhưng chủ yếu họ được quyết định ở Ban thư ký Ban chấp hành Trung ương, mà sự làm việc của nó tôi chấp nhận không tham gia. Tại phiên họp Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản(b) Ukraina các vấn đề này ít khi đặt ra. Tuy nhiên tất cả những gì tôi có thể làm, để giảm áp lực của Kaganovich đối với những người giả danh dân tộc chủ nghĩa, tôi đã làm.

Một loạt tài liệu của Kaganovich gửi cho Stalin về “những câu hỏi có vấn đề”.

Cuối cùng, có một lần Stalin gọi tôi:

- Tại sao Kaganovich gửi cho tôi những tài liệu, còn ông lại không ký những tài liệu này?

- Thưa đồng chí Stalin, Kaganovich - bí thư nước cộng hoà Ban chấp hành Trung ương, và ông ta viết cho cho ông với tư cách Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương. Vì thế không cần chữ ký của tôi.

- Điều này không đúng. Tôi nói với ông nói rằng chúng tôi sẽ không nhận một bức thư nào nữa nếu thiếu chữ ký của ông.

Ngay khi Stalin đặt ống nói, Kaganovich gọi cho tôi:

- Stalin gọi anh?

- Vâng.

- Ông nói gì với anh?

- À, điều là bây giờ chúng tôi hai người cần phải ký những tài liệu gửi về Moskva.

Kaganovich thậm chí không hỏi, Stalin còn nói gì thêm nữa không: chúng tôi hiểu nhau chỉ nửa lời. Tuy nhiên hầu như chẳng có tài liệu nào đưa đến tôi ký, vì rằng dòng tài liệu này khô kiệt: Kaganovich biết rằng các tài liệu của ông không đời nào tôi ký. Những tài liệu mà ông đưa tôi, hoặc coi như xong, hoặc tôi từ chối ký, và chúng không đi đâu tiếp.

Đối với cá nhân tôi, kết luận chủ yếu là ở chỗ Stalin quay lại tín nhiệm tôi. Chuông điện thoại của ông đối với tôi là tín hiệu tương ứng. Điều này cải thiện tình trạng tinh thần của tôi: tôi khôi phục hoàn toàn quyền lực không những về chức danh uỷ viên Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản toàn Nga (b).

Đối với kế hoạch: kế hoạch thu mua lúa mỳ chúng tôi hoàn thành, được khoảng 400 triệu pud ngũ cốc. Vụ mùa trong thời gian ấy là không tồi. Sự thật kế hoạch cũng không lớn, nhưng chính là kinh tế nước cộng hoà bị chiến tranh phá huỷ. Vì thế trên bình diện chung của nông nghiệp Liên Xô sau chiến tranh, đây là những con số tốt.

Mùa thu 1947, Stalin gọi tôi và Kaganovich về gặp ông. Trước đó, khi chúng tôi hoàn thành kế hoạch, chúng tôi đề nghị ông tiếp chúng tôi ở Sochi, nơi ông nghỉ. Chúng tôi bay đến chỗ ông. Còn bây giờ, khi Stalin quay về Moskva, chính ông gọi chúng tôi và đặt vấn đề Kaganovich không làm gì làm tại Ukraina, phải rút ông ta về Moskva. Như thế, tôi phục hồi và là Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản(b) Ukraina. Tôi, tất nhiên, vui và với lòng nhiệt thành lớn nhận công việc đã quen. Công việc ở chúng tôi tiến hành tốt. Nông nghiệp tại Ukraina khôi phục nhanh một cách đáng kể so với các chỗ khác, bị chiến tranh tàn phá. Chúng tôi thi đua với Belorussia. Ukraina vượt Belorussia trong mọi quan hệ. Tất nhiên Belorussia bị phá huỷ nặng nề. Và tất cả những sự thật này nâng giá trị cùng với uy tín của ban lãnh đạo Ukraina. Tôi hài lòng.

Năm 1949 - năm cuối cùng của tôi tại Ukraina. Stalin gọi tôi về Moskva, và nói rằng tôi lần thứ hai quay về công tác tại thủ đô toàn Liên bang. Nhìn quanh, tôi nhận thấy nhân dân Ukraina đối với tôi rất tốt. Tôi ấm lòng. Tôi nhớ những năm đã qua ở đó. Đó là thời kỳ rất xứng đáng, nhưng thú vị vì rằng đem lại sự thoả mãn: phát triển nhanh, tăng trưởng cả nông nghiệp, và công nghiệp của nước cộng hoà. Stalin không ít lần trao cho tôi làm báo cáo về Ukraina, đặc biệt về các vấn đề tiến bộ sản xuất thịt, còn sau đó cho những báo cáo này công bố trên báo Sự Thật, để, theo lời ông, những người khác cũng làm những gì mà chúng tôi chúng tôi đã làm tại Ukraina. Vả lại, tôi chưa đánh giá vai trò cá nhân. Toàn nước cộng hoà lao động căng thẳng.

Tôi biết Ukraina không tồi. Và trước đây tôi đã coi và bây giờ tôi cũng coi rằng so sánh với những nước nước cộng hoà khác, thì Ukraina có mức phát triển phát triển nông nghiệp cao và ruộng đất trồng trọt tương sđối cao. Tôi không biết, thật ra, đánh giá như thế nào trồng bông Trung Á. So sánh Ukraina với các nước cộng hoà khác (không kể các nước Bantic, vì rằng các nước Bantic mới vào trong thành phần Liên Xô chưa lâu), tôi nói rằng Liên bang Nga, Belorussia và những nước cộng hoà khác thua Ukraina. Điều đó, hình như đã từng có trong lịch sử. Liên bang Nga tách rời phía tốt nhất Kuban: ở đó cũng có đất tốt và trồng trọt cao, chế biên nông sản. Thành công CHXHCN Ukraina tôi ghi nhận tất cả nhân dân Ukraina.

Bây giờ tôi không phổ biến tiếp tục các chủ đề đã nêu, nhưng điều này về nguyên tắc rất dễ chứng minh. Tôi là người Nga và tôi không muốn phật ý người Nga, đơn giản xác nhận rằng tại Ukraina ruộng đất trồng trọn nhiều hơn. Bây giờ đang diến ra sự bình chuẩn, khắp mọi chỗ đưa ra sự tăng cường mạnh mẽ để nâng cao ruộng đất, tốn kém nhiều tiền hơn. Kỹ thuật mới, phân bón vô cơ, tất cả những nguyên tố khác mà mức sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào nó, bị tăng chi phí, để mà làm thăng bằng đất trồng trọt ở nước cộng hoà và nâng nó lên hàng nămcao hơn và cao hơn đảm bảo hoàn toàn nhu cầu của nhân dân trong các sản phẩm nông nghiệp.
Lại về Moskva



Lý do triệu hồi tôi từ Ukraina về Moskva năm 1949 - theo tôi, là kết quả sự buồn phiền nào đấy trong đầu óc Stalin. Tôi lúc ấy ở Lvov. Những người dân tộc chủ nghĩa Ukraina giết nhà văn quốc tế Galana, còn tôi chủ toạ hội nghị sinh viên Đại học lâm nghiệp. Người sinh viên, giết Galana, đang học trong trường Đại học này, vì thế tôi quyết định nói chuyện với đồng môn của nó.

Bỗng nhiên Malenkov gọi tôi nói là Stalin muốn tôi tức tốc về Moskva.

- Ngay cơ à?

- Ngay! Sáng mai bay.

Hôm sau tôi có mặt ở Moskva. Stalin gặp tôi rất niềm nở.

- Chà, anh định ngồi lâu tại Ukraina đấy à? Ở đó anh bị biến thành nông dân Ukraina mất. Giờ là lúc anh quay về Moskva.

Rồi ông bắt đầu kể:

- Chúng tôi cho rằng anh lại phải giữ chức Bí thư thứ nhất Uỷ ban Đảng bộ Moskva. Ở đây công việc điều hành rất kém - ở Leningad, chúng ta tiến hành bắt giam người mưu phản. Có cả mưu phản ở Moskva. Chúng tôi muốn Moskva là chỗ dựa Ban chấp hành Trung ương Đảng, vì thế anh làm việc ở đây hữu ích hơn. Anh trở thành bí thư lập tức Đảng uỷ Moskva và Ban chấp hành Trung ương Đảng.

Tôi, tất nhiên, tự hào vì sự tín nhiệm. Tôi nói rất hài lòng về Moskva, vì rằng công việc trước đây của tôi tại thủ đô, 11 năm trước đây. Tôi cho rằng thời hạn cgr tại Ukraina hoàn toàn tử tế và chuyển đi sẽ có ích cho tôi.

Khi tôi từ chỗ Stalin về nhà, Vasilevsky và Korheychuk, đang ở Moskva, rẽ vào chỗ tôi. Tôi kể cho họ cuộc nói chuyện vừa xong. Vanda Lvovna khóc, đúng là khóc rống lên. Tôi chưa từng bao giờ thấy bà trong trạng thái này. Bà khóc:

- Anh vừa từ Ukraina về phải không? Ở đấy thế nào?

Người phụ nữ Ba lan than khóc vì sự kiện một người Nga từ Ukraina về! Hơi kỳ quặc. Hình như điều này được giải thích tôi có quan hệ rất tốt, hữu nghị với bà. Tôi rất kính trọng nà. Đó là phụ nữ tuyệt vời, một nữ cộng sản tuyệt vời. Và bà cũng kính trọng tôi. Tôi không che giấu nét này, có thể tý chút háo danh, hoàn toàn, thú vị đối với tôi. Những sự kiện đã qua nổi bật trong trí nhớ tôi, và tôi quyết định nói hết với bà.

Theo kiểu cách Stalin, ông giải quyết: trong sự việc xác nhận điều không may công việc ở Moskva, ông trao cho tôi một tài liệu:

- Đấy, làm quen đi, còn sau đó chúng tôi sẽ nói chuyện.

Tôi không đọc ở đấy - đây là một tài liệu dày - và đặt nó vào túi túi. Hôm sau tôi đọc quaл. Té ra đó là một tố cáo nặc danh mặc dù có ký tên, nhưng là nặc danh theo tính chất của nó. Bây giờ tôi không nhớ những chữ ký ấy là của ai. Thư và rằng ở Moskva có một nhóm người mưu phản chống Ban chấp hành Trung ương và Chính phủ xô viết, mà cầm đầu nhóm này là bí thư Thành uỷ Moskva và Ban chấp hành Trung ương Đảng - Popop. Thêm nữa còn chỉ ra ai tham gia vào nhóm: các bí thư đảng uỷ khu vực, Chủ tịch khu vực, giám đốc các nhà máy, các kỹ sư. Tôi lập tức cảm thấy người viết thư này có ý nghĩ điên rồ, либо kẻ đểu cáng. Tôi cho tài liệu vào tủ và quyết định không nói cho Stalin về nó một thời gian nào đấy, cho là càng nhiều thời gian không đả động đến cuộc nói chuyện như thế, càng tốt hơn.

Khi tôi về Ukraina để làm giấy tờ chuyển về Moskva, Stalin nói với tôi:

- Anh nhớ về quay về Moskva dịp tôi 70 tuổi? (nghĩa là vào tháng 12).

- Chắc chắn, tôi sẽ về, bây giờ tôi sẽ tổ chức phiên họp toàn thể Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản(b) Ukraina, bầu ban lãnh đạo mới, và tôi quay về.

Trước đó, tôi thoả thuận với ông là tôi sẽ giới thiệu Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Melnikov. Stalin đồng ý, mặc dù cũng không biết ông ta: vì Stalin tin tôi. Tôi đi đến về Moskva trước ngày sinh nhật của ông, 21 tháng 12. Chúng tôi làm lễ kỷ niện vị lãnh tụ 70 tuổi, tôi được bầu bí thư tỉnh uỷ và thành phố Moskva và nhận công tác.

Chẳng bao lâu sau, Stalin hỏi tôi:

- Tôi đưa cho ông tài liệu. Ông đã làm quen với nó chưa? - Và ông nhìn tôi chăm chú.

- Tôi đã làm quen.

- Thấy thế nào?

Stalin có thói quen như thế này: nhìn vào mình, sau đó hếch mũi lên trên:

- Thế nào?

Tôi trả lời:

- Một thằng vô lại nào đấy đã viết hoặc điên rồ.

- Như thế nào?

Ông rất không rất hài lòng, khi người ta không tin vào các tài liệu kiểu như thế.

- Thưa đồng chí Stalin, tôi hoàn toàn tin tưởng rằng tài liệu đã đưa không có một tý nào chung với hoạt động. Cá nhân tôi biết nhiều người, mà được gọi là những người mưu phản. Đây là những người lương thiện nhất. Ngoài ra, tôi hoàn toàn tin rằng Popop cũng không phải là người mưu phản. Ông không khôn ngoan giữ mình. Đồng ý là ông ta tỏ ra không ở chức vụ cao được. Nhưng ông ta không phải là người mưu phản, mà là một người trung thực, điều này tôi đã và đang không nghi ngờ. Nhưng nếu như thậm chí ông trở thành người mưu phản, thì những người, như đã viết trong tài liệu, tham gia vào nhóm mưu phản của ông, bản thân tôi không biết họ có tạo dựng với ông.

Hình như giọng tự tin của tôi ảnh hưởng đến Stalin:

- Ông cho rằng tài liệu này không đáng lưu ý?

- Hoàn toàn đúng, thưa đồng chí Stalin, không đáng. Theo tôi, ở đây có sự khiêu khích hoặc điên rồ.

Stalin chửi rủa, và tất cả kết thúc. Anh hãy tự hình dung: nếu như muốn lấy lòng Stalin, muốn trội hơn và chiếm được sự tín nhiệm của ông, điều này rất dễ làm. Chỉ cần nói:

- Đúng, đồng chí Stalin, đây là một tài liệu nghiêm túc, phải được phân xử và có biện pháp.

Khá đủ với lời phát biểu từ phía tôi, và bây giờ Stalin ra lệnh bắt Popop và “nhóm của ông”.

Họ, tất nhiên bị hỏi cung “hiểu rõ”, nhóm mưu phản ở Moskva, nhưng tôi trở thành một người có thể, người ta tố thêm rằng rằng dường như, ông đến, ngó nhìn, lập tức khám phá và làm thất bại người mưu phản. Thật là đê tiện! Con trong thực tế người ta xảy ra ở những người khác ở Leningad.

Tôi bắt đầu công tác ở Moskva. Nhưng người ta biết rằng lần này Stalin chĩa vào Popop, mà ông xem là người mưu phản, và ông chưa yên tâm chừng nào chưa nhổ được Popop. Chúng tôi trình với Malenkov, và tôi đề nghị:

- Đưa Popop ra khỏi Moskva, chọn cho ông ta một chức vụ tốt.

Chúng tôi đã làm như thế, cử ông đi, với một khoảng thời gian đệm, làm giám đốc một nhà máy lớn ở Kuibysev. Stalin đôi lúc nhớ lại:

- Popop ở đâu nhỉ?

Đã từng có lúc, Popop là người được Stalin quý. Tôi trả lời:

- Ở Kuibysev.

Và Stalin yên tâm. Hình như Stalin nghĩ:

- Liệu Khrusev có lầm không, người mưu phản này không còn ở gần, và liệu ông không tiếp tục những hoạt động của mình tại thủ đô?

Stalin không bao giờ thoả hiệp với điều này nhưng khi biết rõ là Popop ở cách xa, thì ông yên tâm.

Sau này người ta chuyển cho tôi về sự căm tức của Popop chống tôi. Ông chết ông, kết tội ông cái gi? Ông không hiểu rằng ông không cần chửi tôi, mà ngược lại. Nếu như không phải là tôi, thì ông đã chết, vì rằng Stalin chuẩn bị làm điều này. Ведь và chính Stalin gọi tôi để nhận tài liệu chống Popop và tin vào tài liệu này. Tôi cứu Popop, nhưng có tình huống một người không hiểu và không hài lòng bởi vấn đề gì đó, thì người ta quay lưng về người bảo vệ mình. Nhưng chính khi đó tôi cũng liều. Nếu Stalin không tin tôi, có thể ông nghĩ rằng và tôi cũng tham gia vào âm mưu cùng với Popop.

Sau chiến tranh chúng tôi dần dần quay lại cối xay thịt năm 1937, quay trở về những phương pháp “làm việc” thời ấy.

Khi tôi trở thành bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản toàn Nga (b) và thành uỷ Moskva, thì Kuznesov-Leningradsky (giữa chúng tôi với nhau, gọi ông ta như thế) bị bắt. Triển khai săn lùng những người Leningrad. Tổ chức Đảng Leningrad bị công kích. Stalin, nói rằng tôi cần phải về Moskva, khi đó tôi được cử đến Leningad để khám phá vụ mưu phản. Stalin nói chung cho rằng Leningrad - thành phố có âm mưu làm phản.

Khi đó nhiều người tỉnh Gorky được đưa về Moskva. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên bang Nga (bây giờ tôi không nhớ họ tên của ông) cũng từ Gorky. Tôi nghĩ rằng Zdanov, người nhiều năm công tác ở đó và hiểu biết cán bộ địa phương, đã đưa họ về. Ông chủ tịch là người tốt, tôi thích ông: trẻ, đầy sinh lực, có suy nghĩ riêng, triển vọng. Nhưng cũng bị bắt. Và không những ông, nhiều người cũng bị bắt. Tôi nhiều năm không công tác ở Moskva và vì thế không biết những người trong số bị bắt. Ít nhiều biết Kuznesov. Người biết rõ Voznesensky. Voznesensky vẫn còn chưa bị bắt, khi tôi về Moskva, nhưng ông cũng đã được chuyển khỏi chức vụ trước đây. Ông đi lại, không có công việc và chờ đợi điều này kết thúc ra sao và người ta mang đến cho ông cái gì ngày hôm sau.

Stalin trước đây quan hệ rất tốt với Voznesensky, rất tín nhiệm và kính trọng ông. Đúng và với cả Kosygin, và Kuznesov, với tất cả bộ ba này. Lúc đó cho rằng bộ ba trẻ tuổi - Voznesensky. Kuznesov và Kosygin. Họ sẽ thay thế chúng tôi. Stalin bắt đầu cất nhắc họ. Kuznesov cần thay thay thế Malenkov. Stalin đưa Voznesensky là phó chủ tịch thứ nhất hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, nghĩa là phó thứ nhất của mình, và trao cho ông chủ toạ phiên họp Hội đồng Bộ trưởng. Kosygin phụ trách vấn đề công nghiệp nhẹ và tài chính. Tôi giả thiết rằng việc chết của những người này (trừ Kosygin) được xác định chính xác bởi Stalin cất nhắc họ để chuẩn bị thay thế lớp cán bộ lão thành. Trước tiên, nghĩa là, thay Beria, Malenkov, Molotov, Mikoyan. Những người này, Stalin không còn tin như trước đây.

Đã có sự moi móc, phá hoại sự tín nhiệm của Stalin đối với những người trẻ tuổi, xúi Stalin đối với những người được ông cất nhắc, tôi bây giờ khó nói. Tôi chỉ kết luận từ những quan sát của mình và những phản ứng riêng rẽ, mà tôi nghe được trong những cuộc nói chuyện giữa Malenkov và Beria. Ngoài ra, tôi thấy, Malenkov và Beria tự dẫn dắt ở Stalin, khi nói chuyện về những người này. Tôi có ấn tượng, Malenkov và Beria trình ra hết sức, để dìm họ. Chủ yếu là Beria hành động, còn Malenkov, Beria sử dụng ông như chiếc búa, vì rằng ông ngồi ở Ban chấp hành Trung ương Đảng và ông gửi tất cả thông tin và tài liệu, được chuyển cho Stalin. Một loạt tài liệu đuổi theo mục đích theo hướng cơn giận dữ của Stalin chống “nhóm trẻ.

Mọi người biết trước Stalin phản ứng như thế nào.

Khi đó ngồi trong tù là Sakhurin, Dân uỷ công nghiệp hàng không trong thời gian chiến tranh. Tôi biết rất rõ Sakhurin, khi ông làm công tác Đảng và nói riêng, là Đảng uỷ Ban chấp hành Trung ương nhà máy sản xuất máy bay. Với tư cách Dân uỷ, Dementev thay thế ông. Tôi biết người này người nọ quan hệ tốt với ông, cho là họ những kỹ sư rất thông minh và là những nhà tổ chức sản xuất. Sakhurin ngồi tù vì rằng trong thời gian chiến tranh dưới sản xuất “máy bay kém”.

Điều này xảy ra, khi tôi còn công tác ở Ukraina, và vì thế tôi không biết chi tiết. Sau đó Malenkov kể cho tôi dường như Vasili Stalin (con trai Stalin) viết một bức thư (hoặc cá nhân ông ta nói điêu với bố mình): người ta đã làm máy bay như thế và họ có khuyết điểm như thế, và người có lỗi trong việc này Dân uỷ Sakhurin.

Gián tiếp chịu trách nhiệm vụ này có cả Malenkov, người theo đường lối của Bộ chính trị trong thời gian chiến tranh được trao trách nhiệm theo dõi công nghiệp hàng không. Giờ đây ông bị quy tội bảo kê cho Dân uỷ làm việc tồi. Một cái gì đó công minh, vì rằng chạy theo số lượng đi đến làm kém chất lượng. Nhưng chính chiến tranh xảy ra! Trong nhiều ngành công nghiệp cũng xảy ra những hiện tượng như thế. Những sự phán xét kiểu ấy dẫn đến việc bắt giam Sakhurin và cách chức Malenkov tại Ban chấp hành Trung ương. Ông được đưa về, hình như, Taskent. Nhưng ông ở đó ngắn ngủi và nhanh chóng được quay về. Nhiều người bây giờ cũng không nhớ xảy ra sự thật như thế. Beria đưa Molotov về Moskva. Khi Malenkov không đứng ở Moskva, Beria, như chính ông kể, tiến dần từng bước đưa tới Stalin ý tưởng cho Malenkov quay về. Cuối cùng ông đã đưa Molotov quay về, và ông lại chiếm lại chức cũ là Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng.

Cũng có một cớ khác để bắt Kuznesov và những người khác? Tôi không thể biết chi tiếс, nhưng một điều gì đó tôi biết và tôi muốn nói hết về điều này. Bây giờ có nhiều ý kiến không thực tế và thậm chí gây ra ngạc nhiên rằng nguyên nhân có thể gây ra cái chết cái chết của nhiều người và cả cụm tổ chức Đảng bị nghi ngờ. Đấy là sự thật. Ngay từ trước chiến tranh (tôi không nhớ năm nào) trong Ban chấp hành Trung ương thành lập Đảng uỷ của Liên bang Nga. Lãnh đạo Đảng uỷ đó, hình như, Andrey Andreev Andreev. Tôi không biết tình tiết Đảng uỷ này ngừng tồn tại, và lại nảy sinh tình thế là Liên bang Nga không có tổ chức Đảng cao cấp của mình, để phân tích các vấn đề kinh tế và v.v… Tất cả được Dân uỷ Liên Xô giải quyết, chỉ có các vấn đề quốc tế bậc ba mới được xem xét ở Hội đồng dân uỷ Liên bang Nga. Nói riêng, cũng do Liên bang Nga làm việc này kém hơn những nước cộng hoà khác.

Có lần sau chiến tranh, từ Ukraina về, tôi tới gặp Zdanov. Ông bắt đầu phát biểu cho tôi suy nghĩ của ông:

- Tất cả các nước cộng hoà có Ban chấp hành Trung ương của mình, bàn luận các vấn đề tương ứng và giải quyết chúnh hoặc trình lên Ban chấp hành Trung ương Liên Xô và Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Họ hoạt động dũng cảm hơn thảo luận về các vấn đề trong nước, giải quyết chúng và huy động mọi người. Do đời sống là mấu chốt, điều này tạo điều kiện phát triển kinh tế, văn hoá, công tác Đảng. Liên bang Nga thực tế không có lối thoát tới các tỉnh của mình, mỗi tỉnh hoạt động theo cách riêng của mình. Việc tổ chức cuộc họp thảo luận trong Liên bang Nga, không thể làm được. Và cũng không có một cơ quan nào đứng ra tổ chức thảo luận trong khuôn khổ nước cộng hoà.

Tôi đồng ý với ông:

- Đúng thế. Liên bang Nga bị đặt trong những điều kiện không bình đẳng, và lợi ích của nó bị thiệt hại.

Zdanov tiếp tục:

- Tôi suy nghĩ về vấn đề này. Có thể phải quay về kiểu cũ, thành lập Đảng uỷ Liên bang Nga? Tôi cảm thấy điều đó dẫn tới sự hiệu chỉnh công tác Đảng ở Liên bang Nga.

Tôi nói:

- Tôi cho rằng điều này là có lợi. Thậm chí ngay khi Lenin còn sống ở Liên Xô cũng không có Ban chấp hành Trung ương Đảng của Liên bang Nga. Điều này và đúng, vì rằng nếu như Liên bang Nga có một tổ chức Đảng trung ương được bầu ra như ở các nước cộng hoà khác, thì có thể nảy sinh sự tương phản. Liên bang Nga là khá mạnh theo dân số, công nghiệp, nông nghiệp. Như thế ở Moskva lập tức tồn tại hai hai Uỷ ban trung ương: một - giữa các nước cộng hoà, hai - đối với Liên bang Nga. Lenin không làm điều này. Hình như ông không muốn xây dựng hai trung tâm, không muốn đụng chạm của các trung tâm ấy, mà có xu hướng chỉ có một sưl lãnh đạo Đảng và chính trị mà thôi. Như thế Ban chấp hành Trung ương Liên bang Nga không cần thiết, tốt hơn là chỉ có Đảng uỷ.

- Đúng - Zdanov nói - hình như xây dựng Đảng uỷ như thế là hợp lý.

Zdanov trước khi đến Vanday, nơi ông nghỉ và chữa bệnh, gọi về Kiev cho tôi:

- Lúc ông ở Moskva, nhưng tôi với ông không kịp trò chuyện. Tôi có một vấn đề quan trọng. Khi nào đây tôi từ Vanday về, chúng ta sẽ nói chuyện.

Tôi chúc ông mọi điều tốt lành. Nhưng sau một thời gian ngắn, tôi nhận tin Zdanov chết. Như thế điều mà ông muốn nói, vẫn còn là bí ẩn đối với tôi. Ông ít khi gọi về Kiev cho tôi và tôi cũng ít khi gọi cho ông từ Kiev. Ở chúng tôi phát sinh những vấn đề cán bộ hoặc về nông nghiệp. Chuông điện thoại gọi cho tôi ở Moskva vẫn có, nhưng không phải từ Zdanov mà từ Malenkov. Còn bây giờ người ta buộc tội “nhóm Kuznesov” ở Leningad, dường như ở đó xuất hiện “chủ nghĩa dân tộc Nga” và tương phản với Ban chấp hành Trung ương Liên Xô. Một điều gì đó trong tâm hồn toi, chính xác tôi không nhớ, còn tài liệu thì tôi không thấy. Vì sao ở tôi lạ có ấn tượng như thế? Tôi đã nghe đã nghe giữa Malenkov và Beria, và một lần khác cũng ở Stalin. Stalin đặt cho Malenkov các vấn đề nào đấy, và cuộc nói chuyện của họ đàm phán xoay quanh vấn đề này.

Tôi có lần nói chuyện với Malenkov. Khi đó tôi đang nghiên cứu vấn đề xây dựng tại Ukraina Bộ công nghiệp than và công nghiệp luyện kim. Khi Lenin còn sống, sau nội chiến tại Ukraina đã thành lập Uỷ ban về công nghiệp than đá do Semen Svars, một bolsevich lão thành lãnh đạo. Trong thời gian ấy, tôi còn phục vụ trong hồng quân. Hình như cuối năm 1921 và đầu 1922. Khi tôi trở về khu mỏ và công tác ở khu mỏ Rutchenkov, thì người lãnh đạo công nghiệp than Donbass là Georgy Piatakov, một chính khách và nhà kinh tế lớn. Ông được coi là nhà kinh tế thực thụ và uy tín nổi tiếng. Sau đó người ta thay thế ông tôi không biết chính xác, vì lý do gì, nhưng lý do chính, tất nhiên, là chính trị, vì rằng Piatakov là người gần gũi với Trotsky, khi đó có cuộc đấu tranh mạnh với ông ta. Hình như cũng có tin rằng người ta chuyển Piatakov khỏi Donbass. Thay chỗ ông là Chubar. Lúc đó hội nghị đảng bộ tỉnh người ta hát nhiều câu vè về sự độc ác. Gặp nhau, chào hỏi thế này:

- Ban chấp hành Trung ương cho chúng ta Chubar. Còn cái gì ở chúng ta bị thay đổi?

Than trong những năm ấy chủ yếu được khai thác tại Donbass. Có lẽ, than Donbass chiếm 80% sản lượng than Liên Xô. Tôi cho rằng nên xây dựng tại Ukraina một sự chỉ huy thống nhất về than, quay trở lại thời Lenin. Tại Ukraina có công ty “thép miền nam”. Lãnh đạo nó là Ivanov, cũng một bolsevich lão thành. Một người tương đối béo. “Thép miền nam” trụ sở ở Kharkov, còn Uỷ ban công nghiệp than đá ở Bakhmut (bây giờ Artemovsk). Sau đó ông cũng chuyển về Kharkov, và người thay thế ông là Rukhimovich, còn Chubar trở thành Chủ tịch Hội đồng Dân uỷ Ukraina.

Tôi rất kính trọng Rukhimovich. Đây là một người tuyệt vời, một bolsevich lão thành, rất mộc mạc và dễ chịu, quyết đoán và thông minh. Những thợ mỏ Donbass - kể cả ban lãnh đạo của họ, tiếp xúc với những người lãnh đạo - rất kính trọng Rukhimovich. Ông thường tiến hành thảo luận với cán bộ công nghiệp than và, tôi luôn luôn đến các cuộc thảo luận này, khi tôi là đại diện lãnh đạo đảng khu vực Stalin. Rukhimovich biết tôi và quan hệ tốt với tôi. Hình như tôi là có ích cho ông, vì rằng tích cực làm việc trong khu vực của mình. Tôi từng là người địa phương, lớn lên trong những thợ mỏ và hiểu biết điều kiện sản xuất cũng các mỏ cả nhà máy công nghiệp luyện kim.

Và tôi muốn cuối thập niên 40 xây dựng một cái gì đó ở Ukraina về than, kim loại và giao thông đường sắt. Tôi đến Moskva và trước hết ký các văn bản và gửi cho Stalin, đề nghị nói chuyện với Malenkov. Tôi nhìn hấy, Malenkov nhìn tôi lạ lùng và mắt ông ta trố lên:

- Anh làm gì thế? Anh làm sao thế?

- Gì cơ ạ?

- Cất ngay các tài liệu này đi và đừng nói với ai cả về nó nữa. Anh có biết bây giờ ở Leningad xảy ra một cái gì… không? Người ta buộc tội những người Leningrad, rằng ở họ xuất hiện tính tự lập: họ tự ý mở ra ở Leningad những chợ và cho bán hết hàng hoá tồn đọng.

Nhưng tôi chẳng nhìn thấy ở đó tội ác nào và chẳng có xuất hiện chủ nghĩa dân tộc nào cả. Chính chúng tôi đã làm điều này ở Kiev. Ở đó có chợ bán hàng tồn đọng, mà trong các cửa hàng không có cho người mua, mà ở đây giá thấp, khuyến mãi. Có cả những hàng hoá kém chất lượng, không được kiểm tra khi sản xuất trong thời gian sau chiến tranh. Tôi thoát khỏi vụ này. Và đó là việc không mất lòng ai và có ích, có lẽ, có hình thức tương xứng đem lại cho Stalin lóp sơn chính trị.

Ai đã làm điều này? Tất nhiên là Beria và Malenkov. Stalin nói chung hơi ốm yếu và đa nghi. Cuộn chỉ bắt đầu được gỡ ra. Quả là tôi không biết cụ thể nó được gỡ như thế nào, nhưng đã gỡ ra thật, được gọi là bồng bột. Theo quan điểm của Stalin, cần phải liệt vào “hành động thù địch”, trước tiên bắt Kuznesov và Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng Liên bang Nga (tôi nhớ họ tên của ông - Rodionov). Họ còn đặt vấn đề xây dựng một tổ chức nào đấy của nước cộng hoà, dường như làm việc, không chịu chỉ đạo của các cơ quan Liên Xô. Tóm lại, họ mắc lỗi vì gây sự tương phản quanh trung tâm.

Bắt đầu các vụ bắt bớ. Bắt hàng loạt người ở Leningad, còn những ai mà Ban chấp hành Trung ương lấy từ Leningrad, được điều động lên chức vụ mới, ở chỗ khác. Chẳng hạn, ở Krym khi đó ban lãnh đạo gồm những người Leningrad, và ở đó cũng bị bắt hết. Cách chức Voznesensky, vì ông cũng người Leningrad. Nói chung người ta đã khám phá ra cuộn len, như người ta thường nói, nghĩa là ổ tội ác. Người ta đã tưởng tượng ra cái ổ mưu phản ở Leningrad, cái ổ này, dường như, theo đuổi âm mưu chống xô viết. Lại phát sinh tình thế thảm khốc trong nước, và trong Đảng. Căn bệnh đàn áp có thể dễ dàng lôi kéo ai muốn.

Bây giờ tôi nảy ra suy nghĩ: phải chăng người ta không sản xuất bức thư, mà Stalin đưa tôi đọc, qua Beria và qua điệp viên của ông để de doạ Stalin rằng không những Leningrad, mà cả Moskva có người mưu phản? Stalin khi đó quyết định gọi tôi về để tôi lãnh đạo Đảng bộ Moskva. Nhưng nếu thì tôi, làm quen với bức thư, chặn đứng vụ việc đối với người Moskva, nói một cách tự tin cho Stalin rằng đây là chuyện bịa đặt của những kẻ hám quyền hoặc là những lời hoang tưởng của kẻ điên rồ. Nếu thế, nghĩa là, tôi hoá ra là vật trở ngại để bắt tràn lan ở Moskva. Không chỉ ở Moskva, tôi không biết, bao nhiêu họ giết bao nhiêu người cốt cán về kinh tế và Đảng.

Sự thật tại thủ đô, quá trình bắt bớ ở mức độ nào đấy cũng bắt đầu. Khi tôi quay về Moskva, đã có vụ vụ bắt bớ lớn các cán bộ ZiC (Nhà máy sản xuất ô tô mang tên Stalin[ii]). Lãnh đạo “tổ chức mưu phản gián điệp Mỹ” là người trợ lý giám đốc ZiC Likhachev. Tôi không nhớ bây giờ họ tên ông, nhưng tôi biết người con trai này, người Do Thái gày gò, ốm yếu.

Tôi quen với ông một cách ngẫu nhiên, sau chiến tranh. Có lần tôi gặp Ivan Aleksseevich Likhachev và hỏi thăm sức khoẻ ông. “Vẫn làm việc - ông nói - nhưng cảm thấy không khoẻ lắm”.

- Anh đến Kiev với tôi, nghỉ ngơi, chỗ chúng tôi rất tốt, cứ đến khi nào anh muốn, tôi luôn luôn vui mừng, tạo cho anh điều kiện nghỉ ngơi.

- Cám ơn, tôi sẽ tận dụng lời mời này.

Và có một lần Ivan Aleksseevich gọi cho tôi:

- Tôi có thể đến. Muốn đem theo trợ lý.

- Cả trợ lý đi theo, xin cứ việc, anh muốn đem theo ai cũng được.

Tôi tổ chức cho họ nghỉ ở Kiev.

Likhachev cùng trợ lý thường đến chỗ căn hộ tôi hoặc ở nhà nghỉ cuối tuần trong những ngày nghỉ. Như thế tôi cũng làm quen với người trợ lý. Một người bình thường cần mẫn thực hiện công việc được Likhachev giao cho. Tôi cũng không nghĩ, ông là, như sau này người ta buộc tội ông, là người cầm đầu nhóm gián điệp Mỹ, qua những người này tổ chức công việc của mình ở Liên Xô. Ông bị bắt, và ông, tất nhiên, thú nhận. Tôi biết, người ta “thú tội” như thế nào, rằng họ là điệp viên Anh, điệp viên Hittler và điệp viên của các nước khác. Đây là không phải sự thừa nhận, mà là sự tra khảo buộc phải nhận tội bở người đuổi theo mục đích vụ lợi.

Vụ việc động đến Likhachev. Likhachev khi đó là Bộ trưởng, hình như, bộ giao thông đường bộ. Stalin trao nhiệm vụ cho Beria, Malenkov và tôi thẩm vấn Likhachev. Người ta gọi Likhachev, và thẩm vấn ông. Tôi đau lòng khi nhìn thấy điều này, nhưng tôi không làm được gì cả, vì rằng điều buộc tội dựa trên “những số liệu giấy trắng mực đen”, dựa tên “chứng cớ” của những người, từng làm việc với Likhachev. Điều này được xem như bằng chứng không thể chối cãi. Người ta thẩm vấn ông ở phòng dùng để họp Đảng uỷ Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô ở Kreml, trên tầng ba. Ở đó trước đây là phòng làm việc của Lenin, có đặt một chiếc bàn và ghế bành. Và bây giờ, theo tôi, ở một góc riêng có đặt một chiếc ghế, được buộc bằng những băng đen.

Khi người ta buộc tội ông, Likhachev trở thành một bắt đầu nói một cái gì đó để biện minh, còn sau đó bị run lên và ngất ngã. Nhưng ta dùng nước lau cho ông, để ông tỉnh và đưa về nhà, vì rằng cũng không thể thẩm vấn được. Chúng tôi kể cho Stalin, chuyện xảy ra như thế nào. Stalin nghe, ­nhìn thẳng vào chúng tôi và chửi rủa Likhachev. Trước đây Stalin đối xử rất tốt với Likhachev. Stalin gọi ông là “Likhach”. Stalin bắt chước điều này từ Sergo Ordzonikidze. Likhachev cũng được Sergo quý, và Sergo luôn luôn gọi ông “Likhach”. Và Stalin cũng gọi ông là “Likhach”.

Hình như lúc ấy tâm trạng của Stalin tỏ ra là tốt, và ông để yên cho Likhachev. Ivan Aleksseevich quay về công việc và sống lâu hơn Stalin.

Nhưng những người ở nhà máy ZiC cũng bị trấn áp. Abakumov, là Dân uỷ an ninh quốc gia, tự tiến hành điều tra. Nhưng quả là nếu Abakumov đích thân thẩm vấn, đích thân tiến hành công việc, thì tất cả mọi người nhanh chóng thú nhận họ là kẻ thù điên cuồng đối với Liên Xô. Và tất cả đều bị bắt. Bầu không khí như thế tồn tại ở Moskva trong thời gian ấy, khi tôi lần thứ hai từ Ukraina về. Stalin già đi. Tính đa nghi bắt đầu thúc đẩy ông mạnh hơn, và nó là nguy hiểm cho xã hội. Chúng tôi nhìn ông không như trong những năm đầu phanh phui “kẻ thù nhân dân”, khi cho rằng ông có thể nhìn xuyên qua tường và sắt. Sự tín nhiệm đối với ông đã bị lung lay. Nhưng sau thất bại của Hittler, quanh Stalin luôn là vừng hào quang vinh quang và thiên tài.

Tôi nhớ hôm Voznesensky bị cách chức, tôi lại có mặt tại bữa ăn ở Stalin. Tôi thấy không phải con người mà tôi biết trước đây: thông minh, quyết đoán, thẳng thắn, và dũng cảm. Chính lòng dũng cảm của ông đã giết ông, vì rằng ông thường chộp lấy Beria, khi lập kế hoạch kinh tế quốc dân thường kỳ. Beria có các Dân uỷ dưới quyền cũng thường cần những món tiền lớn cho họ, còn Voznesensky là Chủ tịch Uỷ ban kế hoạch muốn phát triển nhiều mặt kinh tế đất nước. Không phải ông, thì nước ta không có khả năng thoả mãn yêu cầu của các các Dân uỷ, dưới sự lãnh đạo của Beria. Nhưng không phải các Dân uỷ phát biểu chống Voznesensky, mà Beria.

Beria, thân cận Stalin, có nhiều khả năng lớn. Cần biết Beria, sự tháo vát của ông, sự người quỷ quyệt của ông. Ông có thể chờ đợi, chọn đúng thời điểm để bồi thêm cho Stalin một điều tốt hoặc một điều xấu, sự phụ thuộc quyền lợi riêng, và khôn khéo tận dung điều này.

Trong bữa trưa, ngồi ở Stalin không phải Voznesensky, mà là cái bóng Voznesensky. Mặc dù Stalin cách chức ông, tuy nhiên ông vẫn còn lưỡng lự, có lẽ tin vào lòng trung thực của Voznesensky. Tôi nhớ, có lần Stalin hỏi Malenkov và Beria:

- Thế nào nhỉ, vẫn chưa có gì cho Voznesensky? Và ông ta không làm gì cả? Phải cho ông ta công việc, các ông còn chần chừ gì?

- Vâng, chúng tôi sẽ suy nghĩ”, họ trả lời. Sau một thời gian, và Stalin lại nói:

- Vì sao không cho ông ta việc? Có thể giao cho ông Ngân hàng nhà nước? Ông là nhà tài chính và nhà kinh tế, ông ta hiểu biết việc này. Hãy để ông ta lãnh đạo Ngân hàng nhà nước.

Không ai phản đối, nhưng thời gian trôi đi, đề nghị ấy vẫn không thực hiện.

Thời gian trước đây, Stalin không kìm được việc ăn nói láo xược, bắt Molotov hoặc Malenkov cầm bút chì, như ông thường làm, và áp đặt quyết định, ký nó. Giờ đây ông chỉ nói: “Nào, đưa việc cho ông ta”, nhưng không ai cho một cái gì cả. Kết thúc vụ này là người bắt giam Voznesensky. Lời buộc tội trực tiếp là thế nào và điều này phục vụ cho điểm này, tôi cũng không biết. Hình như Beria lén vứt một tài liệu mới nào đấy chống Voznesensky, và, khi cốc nước tràn đầy, Stalin ra lệnh bắt giam ông.

Beria có thể làm việc này từ các phía khác nhau. Theo con đường Đảng, thì Malenkov lén vứt tài liệu, theo đường Chekistкой - thì Abakumov. Gốc của tất cả giả thiết là Beria, một thông minh và chuyên nghiệp, nhà tổ chức chuyển nghề. Ông có thể làm tất cả! Nhưng ông phải gạt bỏ Voznesensky khỏi Hội đồng Bộ trưởng. Ông sợ Stalin có thể dùng lại Voznesensky, và Beria quyết tâm tiêu diệt Voznesensky, hoàn toàn trút tôi cho Voznesensky và đào bới để Voznesensky không thể quay lại được. Do mưu mô đó, Voznesensky bị bắt. Rồi điều tra. Ai chỉ đạo Beria? Tất nhiên Stalin. Nhưng người đóng vai trò đầu tiên “làm việc” trực tiếp nằm trong tay Beria, mặc dù Stalin nghĩ rằng ông đích thân lãnh đạo tất cả.

Vì sao tôi coi như vậy? Vì rằng Abakumov - đây là con người được Beria dạy dỗ. Stalin bổ nhiệm Abakumov vào Bộ An ninh quốc gia, khi Beria rời chỗ này để tập trung vào Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Stalin muốn Bộ an ninh quốc gia trực tiếp báo cáo cho ông tất cả các vấn đề, và Abakumov đích thân báo cáo cho ông. Stalin có thể cũng không biết, nhưng tôi tin rằng Abakumov không đưa một vấn đề nào trước Stalin, không hỏi han Beria trình cho Stalin như thế nào. Beria đưa chỉ thị, còn sau đó Abakumov báo cáo, không dựa vào Beria, nhận sự khen ngợi của Stalin.

Bầu không khí ngột ngạt. Ở nước ta, có người cho rằng những vấn đề lớn, nghiêm trọngđược thảo luận ở Bộ chính trị, hoặc ở Hội đồng Bộ trưởng. Sự thảo luận như thế là cần thiết để tránh những sai lầm lớn. Nhưng điều này tuyệt nhiên không có. Không có phiên họp nào được triệu tập. Tụ tập ở Stalin là các uỷ viên Bộ chính trị, họ nghe ông, còn ông ông đi đi lại lại ra chỉ thị. Có lần ông cũng nghe, nếu như những ý kiến của họ làm ông hài lòng, hoặc ông gầm gừ vào họ để không ai hỏi, ông tự giải nghĩa văn bản quyết định hoặc nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương hoặc Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, sau đó đưa ra công bố. Điều này cũng sự điều hành hoàn toàn cá nhân, đây là sự chuyên quyền. Tôi không biết, gọi điều này như thế nào, nhưng đây là sự thật.

Tôi nhớ Stalin không ít lần đưa vấn đề Sakhurin, người kết tội. Cả nguyên soái không quân Novikov cũng bị bắt, và cũng bị giam giữ sau chiến tranh vì tội nhận “máy bay kém chất lượng “, nghĩa là theo vụ án về sản xuất máy bay.

Tôi biết Novikov. Suốt chiến tranh ông chỉ huy không lực chúng tôi. Tôi nói về nhược điểm của ông: uông rượu hơi quá mức. Nhưng đây là một người con, trung thành với tổ quốc, trung thực, một phi công đích thực hiểu biết công việc của mình. Stalin, hình như nếm náp những mối quan hệ к Sakhurin và Novikov. Ông nhìn vào Beria và Malenkov và nói:

- Novikov và Sakhurin ngồi tù? Có thể tha họ được không nhỉ?

Tựa như ý nghĩ được đọc to thành tiếng. Không ai, tất nhiên, trả lời ông về điều này. Hai người này sợ nói “loanh quanh”, và việc này kết thúc. Một thời gian sau, Stalin lại đặt vấn đề ấy ra:

- Các ông nghĩ, có thể là thả họ được không? Họ ngồi tù làm gì? Họ vẫn còn có thể làm việc.

Ông hỏi Malenkov và Beria, vì rằng chính họ phụ trách việc này.

Khi chúng tôi Stalin ra về, tôi nghe tin có phản ứng giữa Malenkov và Beria. Beria nói:

- Stalin đích thân đặt vấn đề vụ máy bay này. Nếu thả họ, thì có thể lan cả sang những vụ khác.

Họ nói chuyện nhà vệ sinh, nơi chúng tôi rửa tay trước bữa trưa và thỉnh thoảng trao đổi suy nghĩ. Nhà vệ sinh là nơi đôi lần chúng tôi gặp nhau trước phiên họp, và sau phiên họp. Trước phiên họp, thì nói về cái gì sẽ dưa ra, còn sau bữa ăn là bàn cãi xem bản án có hậu quả như thế nào.

Khi ngẫm nghĩ vấn đề này, tôi nảy ra ý nghĩ: Beria nói về các vụ nào khác? Beria hình như lo rằng nếu Sakhurin và Novikov được tha, thì liệu Stalin có quay lại vấn đề Kuznesov và Voznesensky, mà vụ này vẫn còn chưa đưa ra toà. Cả Beria lẫn Malenkov đều sợ điều này. Lúc đó “Vụ án Leningrad” đang là một vấn đề nóng. Mặc dù họ đồng ý, hình như, thả Sakhurin và Novikov, những người không đứng trên con đường đi của Malenkov lẫn Beria. Sự thật Malenkov lo ngại cả lời về Sakhurin và Novikov mà ông đã thốt ra, vì rằng người ta cũng buộc tội ông về vụ này. Chính ông là chỗ dựa cho Dân uỷ công nghiệp hàng không và đã xuất xưởng nhiều máy bay”chất lượng xấu”, do đó chúng tôi làm mất nhiều cán bộ trong thời gian chiến tranh.

Stalin chưa khi nào kể cho tôi về “vụ án Leningrad”, và tôi chưa nghe thấy ông công khai bày tỏ quan điểm của mình. Chỉ có một lần ông đụng chạm vấn đề này, khi gọi tôi từ Ukraina chuyển về Moskva và bàn bạc với tôi về “những người mưu phản ở Moskva“.

Malenkov và Beria không thả Sakhurin và Novikov. Tiếp theo, cũng không thả những người bị bắt trong “vụ án Leningrad”.

Do không biết chi tiết vụ này, tôi phỏng đoán rằng trong các tài liệu đấu tranh về vụ này, có thể trong số những chữ ký của những người khác, còn có cả chữ ký của tôi.

Khi ngẫm nghĩ vấn đề này, tôi nảy ra ý nghĩ: Beria nói về các vụ nào khác? Beria hình như lo rằng nếu Sakhurin và Novikov được tha, thì liệu Stalin có quay lại vấn đề Kuznesov và Voznesensky, mà vụ này vẫn còn chưa đưa ra toà. Cả Beria lẫn Malenkov đều sợ điều này. Lúc đó “Vụ án Leningrad” đang là một vấn đề nóng. Mặc dù họ đồng ý, hình như, thả Sakhurin và Novikov, những người không đứng trên con đường đi của Malenkov lẫn Beria. Sự thật Malenkov lo ngại cả những lời buông thốt ra về Sakhurin và Novikov, vì rằng người cũng buộc tội ông trong vụ này. Chính ông là chỗ dựa cho Dân uỷ công nghiệp hàng không và để cho xuất hiện nhiều máy bay “chất lượng xấu”, do đó chúng tôi làm mất nhiều cán bộ trong thời gian chiến tranh.

Stalin chưa khi nào nói với về “vụ án Leningrad”, và tôi không nghe ông bày tỏ công khai quan điểm của mình. Chỉ có một lần có một lần ông đụng chạm vấn đề này, khi gọi tôi từ Ukraina chuyển về Moskva và bàn bạc với tôi “vụ những người mưu phản Moskva”.

Malenkov và Beria cũng không thả Sakhurin và Novikov. Rồi cũng không thả những người bị bắt ở “vụ án Leningrad”.

Do không biết chi tiết vụ này, tôi phỏng rằng trong các tư liệu điều tra có thể có chữ ký của tôi trong số các chữ ký của người khác.

Thường là như thế này: khi kết thúc vụ việc, Stalin, nếu thấy cần thiết, ngay tại cuộc họp Bộ chính trị ký tài liệu và đưa cho các uỷ viên Bộ chính trị xung quanh ký. Những người này, không dám liếc nhìn, mà dựa chỉ dựa trên thông tin của Stalin, cũng ký. Đấy là quyết định tập thể. Sự thật “vụ án Leningrad”, nếu xem xét thực tế trước đây đấu tranh với “kẻ thù nhân dân”, thì người ta áp dụng những thủ tục tố tụng như sau: không những chỉ điều tra viên tiến hành điều tra, mà còn cả công tố viên đến, sau đó tổ chức phiên toà, mời các cốt cán của Đảng bộ, tiến hành thấm vấn những người bị cáo tại toà, sau đó cho họ nói lời cuối cùng. Thế là cái gì? Nhưng vào thập niên 1930 chẳng có lẽ làm khác sao?

Người ta kể cho Stalin (tôi có mặt lúc ấy) rằng Voznesensky, khi bị tuyên bố xử bắn, đã nói một bài dài. Trong đó ông nguyền rủa Leningrad, nói rằng Peteburg thấy tất cả những người âm mưu - như Biron, và Zinoviev, và thấy phản ứng có thể, còn bây giờ thì ông, Voznesensky, lại rơi vào Leningrad. Ở đó ông học ở đây, còn quê ông ở Donbass. Và nguyền rủa vái ngày, ông chui về Leningrad. Hình như con người ta cũng mất lý trí và nói nhảm nhí. Vụ việc không phải ở Leningad. Thời Zinoviev? Trong thập niên 1920 cuộc đấu đá chính trị hoàn toàn khác: đấu tranh về quan điểm cái gì xây dựng CNXH Liên Xô, khi đó có thể người theo chỗ này, người theo chỗ kia. Tôi cũng khi đó ủng hộ Stalin và chống Zinoviev. Nhưng Biron nói chung ở thời khác. Điều này sự ỷ biết không trùng nhau.

Tôi không nhớ, Kuznesov và những người Leningrad khác đã nói gì ở toà, thực tế họ bị kết án khá lâu trước khi hình thành phiên toà này và ký bản án. Stalin kết án tử hình họ ngay từ khi người ta vừa bắt họ. Nhiều người chết chính tại Leningradе, và tại những nơi mà họ đến từ Leningrad để làm việc ở chỗ khác. Kosygin cũng treo trên sợi tóc. Stalin gửi cho các uỷ viên Bộ chính trị những chứng cớ về những người Leningrad bị bắt, trong đó nói nhiều về Kosygin. Kuznesov và Kosygin là họ hàng: hai bà vợ của họ cũng có những quan hệ máu mủ. Như thế, họ đã đóng những cái nêm vào Kosygin. Ông buộc phải thôi các chức vụ trước đây nhận sự bổ nhiệm chức vụ khác của một Bộ. Trước đây ông là người thân cận của Stalin, thì bỗng nhiên tất cả quay ngược lại và dầy đặc những lớp sơn trong “chứng cớ” đối với Kosygin, tôi cũng không thể giải thích làm sao ông còn được giữ lại và vì sao Stalin không ra lệnh bắt ông. Kosygin, thậm chí khi bị thẩm vấn, có lẽ ông cũng viết lời giải thích. Mọi thứ nhảm nhí, mọi điều buộc tội kỳ cục đổ lên đầu ông ta. Nhưng Kosygin, như người ta nói, kiếm được chiếc vé may mắn.

Điều này có thể xảy ra đối với bất kỳ người nào trong chúng tôi. Tất cả phụ thuộc vào Stalin thoáng nhìn vào anh hoặc anh xuất hiện tại thời điểm ấy. Thỉnh thoảng ông nói:

- Vì sao anh không nhìn thẳng vào tôi? Mắt anh làm sao chạy đi đâu đấy.

Hoặc đại loại một cái gì đó kiểu này. Và tất cả điều này được thốt lên với sự độc ác như thế! Điều tra viên khôn ngoan không đưa mình thậm chí với tên tội phạm say máu, còn thốt ra trong trong bàn hũu nghị. Chúng tôi ngồi, ăn, còn ông bỗng nhiên khen bởi cách đối đáp của mọi người, mời ông ngồi vào bàn của mình và nói chuyện với ông. Thời gian thật nặng nề!
Xung quanh những người nổi tiếng



Sherbakov thò tay vào một việc không tốt này. Tôi muốn nhớ lại một cảnh, khi Sherbakov nổi tiếng “thợ xây dựng sũng cảm” của Hồng quân, khi rơi vào hàng ngũ những thợ xây dựng ấy, không nổi tiếng vì cái này. Trong thời kỳ quân ta rút lui ở mặt trận, đặc biệt đầu năm 1942, đã có nhiều bài báo phê bình, trong đó mổ xẻ những khuyết điểm của hồng quân và phê phán những chứng cớ có thật của việc rút lui. Những bài báo phê phán rất mạnh đó, nói riêng, là của Aleksandr Petrovich Dovzenko, một nhà đạo diễn điện ảnh tuyệt vời, một nhà báo tốt. Ông có sự thông minh thực sự và ngòi bút dũng cảm. Vì thế bài báo của ông làm cú quất đau, đồng thờ chúng vạch ra sự tâng bốc và khoác lác ở Stalin. Năm 1943 ông viết kịch bản phim “Ukraina trong đạn lửa.

Rất một kịch bản rất ấn tượng. Đa số các cảnh trong kịch bản ông mượn trong số những bài báo của mình. Bản thân tên gọi “Ukraina trong đạn lửa” cũng lôi cuốn sự chú ý. Quả là, khi đó tất cả Ukraina nằm trong đạn lửa. Tác giả không tiếc những lời phê bình gay gắt với Hồng quân, mà đặc biệt phê bình những người từng có trách nhiệm về sự chuẩn bị cho Hồng quân chiến đấu, và chỉ ra rằng việc chuẩn bị đó không xứng với điều kiện hiện thời.

Dovzenko trình kịch bản cho Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản(b) Ukraina. Tôi làm quen với ông. Đọc kịch bản này có cả Malenkov và những nhân vật khác, bây giờ tôi cũng không nhớ ai là chính. Dovzenko muốn in nó để rồi trên cơ sở của nó, dựng thành phim. Có một lần Stalin gọi tôi về Moskva, hỏi:

- Ông đọc kịch bản của Dovzenko chưa?

- Vâng, tôi có đọc.

Thật ra, tôi chưa đọc hết, nhưng đã nghe qua. Đích thân Dovzenko đọc nó cho tôi nghe. Lúc đó là những phút căng thẳng đối với tôi (vì lý do khác), và tôi không thể tập trung chú ý đến nó. Điều này xảy ra khi bắt đầu cuộc tấn công bọn Đức vào vòng cung Kursk, tháng bẩy 1943. Ba phần tư suy nghĩ của tôi dành cho cuộc chiến đấu này, còn Dovzenko đọc hết cho tôi nghe tất cả và đôi lúc nói rằng tôi hoàn toàn có thể lấy các bài báo này, bài báo kia của ông để đọc. Tôi biết được rằng đây là một tác phẩm sắc bén, tốn nhiều thời gian, mổ xẻ khuyết điểm. Stalin gọi tôi:

- Anh làm quen với kịch bản chưa?”- “Có ạ.

Tôi kể cho Stalin, trong bối cảnh như thế để ông có thể làm quen với nó. Stalin cho rằng đây là sự thoái thác đơn giản của tôi, và bắt đầu phê bình kịch bản. Ông quát mắng Dovzenko đến nỗi làm tôi làm ngạc nhiên: chính Stalin trước đây có quan hệ rất tốt với tác giả này, đánh giá và ủng hộ ông, dù rằng trước đó gặp một số người từng theo dõi Dovzenko hoặc thậm chí trực tiếp buộc tội ông là người theo chủ nghĩa dân tộc Ukraina và những tội khác. Những tội khi đó có thể đào bới, cả những tội có tồn tại và những tội không tồn tại, hầu như ở một một người có văn hoá của dân tộc Ukraina. Trong thời gian hoạt động của mình tại Ukraina, Kaganovich cũng có phần đóng góp. Ông tuyên bố rằng mỗi người Ukraina - một người dân tộc chủ nghĩa tiềm tàng. Thật là ngu ngốc!

Có lần, vào buổi chiều Stalin mời tôi đến gặp ông. Sherbakov cũng đến đó. Sherbakov bắt đầu xem xét kịch bản đã nêu. Lúc ấy tôi hiểu là có chuyện rồi. Malenkov không im lặng, mặc dù biết kịch bản và chúc mừng Dovzenko. Theo tôi, cá nhân Sherbakov chấp nhận Dovzenko. Sherbakov có một bài nói nói giọng điệu công tố, kích Stalin và chửi mắng tác phẩm của Dovzenko là “dân tộc chủ nghĩa cực đoan”, trong đó dường như phê bình tất cả cơ sở xô viết. Stalin lập tức nổi khùng: Tôi sẽ không nói về mình. Nhưng hiểu tính Stalin, tôi phải trải qua cái gì trong trường hợp này. Còn Stalin không cần sự xem xét, đề nghị tôi gọi một loạt lãnh đạo Ukraina, thành viên Chính phủ và bí thư Ban chấp hành Trung ương về tuyên huấn, ngoài ra, cả Korneychuk, Bazan, Tychin và, hình như, Rylsky. Dovzenko cũng có mặt. Stalin đánh Dovzenko tơi tả. Kết thúc là tương lai của Dovzenko là người hoạt động nghệ thuật bị treo giò, đe doạ thậm chí to hơn. Stalin đề nghị tôi rằng, trên cơ sở “trao đổi những suy nghĩ” này, chúng tôi ra nghị quyết về tình thế không ổn định trên mặt trận tư tưởng Ukraina.

Chúng tôi, lãnh đạo Ukraina, lập nghị quyết và qua hai, ba ngày đem nộp Stalin. Chúng tôi tự làm. Ngoài chúng tôi, không ai trong số uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản toàn Nga (b) tham gia trong vụ. Chúng tôi trao nghị quyết cho Stalin, còn ông ông nhìn dự án này thấy nhiều người tham gia. Ông rất lấy làm thoả mãn, nói:

- Đúng, tốt, hoàn toàn chấp nhận được!” Sự thật nghị quyết được chúng tôi thảo ra một cách tự phê bình trong một số địa chỉ riêng. Nhưng nhị quyết là tốt vì chúng tôi tự thảo nó, như người ta nói, tự mình đâm mình, tuy nhiên sao cho nó không đâu, và nghị quyết ấy được chấp nhận. Sherbakov cảm thấy mình như ở trên mây. Sau này tôi lâu lâu lại bị ho bởi tác phẩm này của Dovzenko. Trong tất cả trường hợp thuận lợi, Sherbakov độc ác xui khiến Stalin, để Stalin nhớ về kịch bản.

Tôi từng nghe, khi Gorky lãnh đạo Hội nhà văn Liên Xô, người ta đã đặt Sherbakov là Bí thư cho Hội, và lo toan vấn đề hệ tư tưởng để mọi công việc trong Hội nhà văn Viên Xô do Gorky lãnh đạo theo đúng đường lối. Tuy nhiên Maxim Gorky không phải là người như vậy để Sherbakov cưỡi cổ ông. Kết thúc là Gorky yêu cầu đuổi Sherbakov đi. Đây là một trong số những bằng chứng tính thâm độc, ác nghiệt của Sherbakov. Tôi lần đầu tiên biết ông, khi ông năm 1942 là Cục trưởng tổng cục chính trị Hồng quân. Những hoạt động của ông tiến hành chủ yếu là rút ra được bằng cả bằng cái đúng lẫn cái sai, gom góp quá trình chiến dịch hàng ngày (để làm việc này ông có một Đảng uỷ riêng) và, tận dụng sự tín nhiệm đối với Stalin, trao chúng sớm hơn Cục tác chiến Bộ tổng tham mưu. Nhưng chính đây mới đúng chức năng của bộ phận tác chiến! Như thế tất cả cán bộ cục tác chiến đặt vào tình thế phụ thuộc với Sherbakov. Chẳng bao lâu bắt đầu thời kỳ chiến thắng của chúng tôi trên mặt trận. Giải phóng các thành phố Liên Xô, bộ đội ta tiến lên thành công - Sherbakov là người đầu tiên hiến tất cả những điều này cho Stalin và ông “đảm bảo” điều ông nó. Điều này lố bịch bây giờ, nhưng khi đó chính là như thế và công việc như thế. Tôi đánh giá công lao của Sherbakov, đồng thời với những mặt rất xấu. Tất nhiên người có lỗi chính, dù sao chăng nữa, là Stalin. Ông xây dựng một bầu không khí, trong đó những thứ như thế có thể nảy sinh.

Dovzenko lập tức dường như ngồi trong giếng nước lạnh. Tinh thần ông sa sút, những quan hệ trước đây đã thay đổi với ông. Tóm lại, ông bị thất sủng. Điều này cũng ảnh hưởng đến cả hoạt động của ông. Tôi thật đáng tiếc nhìn ông, nhưng tôi không thể làm được điều gì, vì rằng còn phải chịu một sự phê bình lớn hơn Aleksandr Petrovich. Và tình thế đó được giữ hầu như đến khi Stalin qua đời. Sau đó chúng tôi lại đề cao công lao Dovzenko và đưa ông trở lại, chừng mực nào điều này có thể, với những hoạt động có ích. Ông lại bắt đầu sáng tạo phim, sau khi ông chết kịch bản của ông, người vợ của ông Solnsevaia làm được một cuốn phim rất tốt. Tôi thật sự hài lòng, khi xem nó. Phim này quả là phảng phất tư tưởng của Dovzenko.

Tôi coi Dovzenko là người lương thiện, trung thành và thẳng thắn. Có lần, ông phát biểu những việc không làm hài lòng các nhà lãnh đạo. Nhưng chính đây lại là tốt, vì rằng nghe tất cả từ một người trung thực tốt hơn từ quân thù. Có thể giải thích cho một người bạn, nếu ông không đúng, hoặc tính đến lời phê bình đúng của ông. Sau cái chết của Aleksandr Petrovich, tôi đề nghị người Ukraina:

- Đặt tên xưởng phim Kiev mang tên Dovzenko, vì rằng ông làm rất nhiều để phát triển điện ảnh ở Ukraina, làm việc rất nhiều và hoàn toàn xứng đáng để tên ông làm đẹp cho xưởng phim Kiev.

Việc này được thông qua.

Còn một cảnh nữa, điển hình cho Dovzenko. Ngay sau khi Beria bị bắt, Dovzenko đề nghị gặp tôi và kể câu chuyện thế này:

- Tôi muốn ông biết về sự thật, mà tôi rất quan tâm. Có một lần đạo diễn điện ảnh Chiaurely mời tôi đến chỗ ông ta. Ông ta là tác giả phim “Berlin thất thủ”.

Chiaurely ựa vào sự ủng hộ của cá nhân Stalin và Beria. Không phải ngẫu nhiên ông dựng cảnh Stalin thực hiện công việc chính của người đứng đầu Tổng hành dinh trong gian phòng ở đó chỉ có những chiếc ghế trống. Chỉ có Stalin hiện diện với ông Poskrebysev, Trưởng ban an ninh Ban chấp hành Trung ương Đảng.

“Một tác phẩm nịnh bợ của nghệ thuật!”. Tôi tự nhủ thế. Sau khi Stalin qua đời và bắt giam Beria, chúng tôi đề nghị Chiaurely, ra khỏi Moskva. Ông đến đâu đó ra vùng ngoại ô và tiếp tục công việc. Tôi không biết, ông ta ngày nay chiếm vị trí nào trong nghệ thuật và chừng mực nào có kết luận đúng cái điều mà người ta chỉ cho ông.

Aleksandr Petrovich Dovzenko tiếp tục câu chuyện:

- Chiaurely nói với tôi: “Đồng chí Dovzenko, tôi khuyên ông đi gặp đồng chí Beria. Beria rất quan tâm đến ông đấy. Anh sẽ có lợi ở chỗ ông ta và nghe ông ấy”. Vì cái gì Chiaurely đề nghị tôi điều này? Tôi không đến và không ở chỗ Beria, vì rằng tôi không có vấn đề gì liên quan tới Bộ nội vụ. Vì cái gì tôi phải đến đó?

Còn tôi nói với Aleksandr Petrovich Dovzenko:

- Chiaurely nói ông đến đó để ông làm điệp viên của Beria. Beria cho rằng Dovzenko - một người có ảnh hưởng cả ở Ukraina, cả trong nghệ thuật. Trong những bước đi mà Beria dự tính ở Ukraina, hắn muốn biến ông thành đồng minh, dựa vào cả ông để tiến hành những cuộc đàn áp đẫm máu. Chiến dịch này chỉ có thể đẫm máu, vì rằng Beria không chấp nhận các phương pháp khác.

Sherbakov vẫn tiếp tục những hoạt động hèn mạt của mình. Tôi không biết, ở mức độ nào đó, ông có tật nghiện rượu. Nhưng tôi không nghĩ rằng ông bản thân ông thích thú gì rượu. Nhưng bởi vì Stalin thích rượu, nên chính ông và phải chịu uống rượu mạnh và khác lôi kéo những những người khác nghiện rượu để làm vừa lòng Stalin. Tôi nhớ một sự cố. Beria, Malenkov và Mikoyan đã nói cô gái bưng bê rượu vang để cô ta mang cho họ những chai rượu vang, nhưng đổ nước vào đấy và thêm chút ít rượu vang hoặc nước hoa quả ép để có mầu. Như thế, trong cốc vại nhìn thấy thứ nước có màu cần thiết: nếu vang trắng, thì pha chất lỏng trắng, nếu vang đỏ - thì nước đỏ. Nhưng những thứ này thực chất là nước lã, và họ uống nó. Nhưng Sherbakov vạch mặt họ. Sherbakov uống “rượu vang” từ những chai như thế, nếm và thét lên:

- Họ uống không phải vang!

Stalin nổi khùng vì họ lừa ông, và một vụ scandal lớn đối với Beria, Malenkov và Mikoyan. Tất cả chúng tôi tức giận Sherbakov, vì rằng không muốn uống vang, nhưng nếu quả là phải uống, thì cũng uống một lượng tối thiểu để thoát khỏi Stalin, nhưng không bị say rượu, không tự giết mình. Sherbakov cũng khổ sở vì điều này. Tuy nhiên không những chỉ có con người xun xoe, độc ác này nịnh bợ mà còn cả những người khác và những người khác cũng làm như ông ta. Ông chết một cách thảm hại. Beria khi đó nói rằng Sherbakov chết vì uống quá nhiều. Uống nhiều thì chết.

Thật ra Stalin nói rằng Sherbakov ngu - vừa mới khỏi ốm xong, ngay sau đó không nghe lời khuyên của bác sỹ và chết vào đêm, khi cho phép mình làm tình với vợ. Nhưng chúng tôi biết rằng ông chết vì uống quá nhiều để chiều lòng Stalin, mà không phải ham muốn rượu vang. Tôi vẫn có ấn tượng khó chịu nhất về con người, vô kỷ luật và có khả năng đối với tất cả những gì có lợi. Ông không có lấy một chút lương tri. Có thể làm tất cả để nâng bản thân mình, và sẵn sàng làm người ta chìm trong lừa dối. Nhưng Stalin lại khoái điều này. Stalin thích chúng tôi sợ, và ông dung túng và củng cố thâm nhập tư chất đểu giả của Sherbakov.

Khi chuyển về Moskva công tác, đối với tôi, tất nhiên, có vinh sự lớn làm việc trực tiếp dưới sự lãnh đạo của Stalin và trực tiếp giao thiệp với ông. Tôi nói rằng đây là có lợi cho công việc. Chính từ Stalin, chúng tôi gom góp được những điều lợi không nhỏ, vì ông chính khách lớn. Đặc biệt tốt, khi đầu óc ông ông tỉnh táo và khoẻ mạnh. Lúc đó ông cho những người thân cận những lời khuyên và chỉ dẫn có ích. Tôi nói thật rằng tôi đánh giá cao về ông và rất kính trọng ông. Nhưng tôi chịu khổ sở ở đây nhiều hơn ở Ukraina, tách xa đây. Hầu như chiều nào cũng có chuông điện thoại:

- Đến đây đi, chúng ta cùng ăn cơm.

Đấy là những bữa ăn thật lạ lùng, đáng sợ. Tôi về nhà vào buổi sáng, trong lúc chính tôi cần giải quyết công việc. Tôi cố gắng ngủ đến 10 giờ, sau khi ăn cơm trưa, tôi cố ngủ một chút, luôn luôn treo một mối đe doạ: không ngủ, mà Stalin gọi, thì sau này sẽ bị lơ mơ. Ngồi cùng bàn ăn với Stalin mà lơ mơ, đều kết thúc xấu.

Thật không tưởng tượng được những điều mà thỉnh thoảng Stalin làm. Ông ném cà chua vào mọi người, chẳng hạn trong thời gian chiến tranh, khi chúng tôi ngồi trong hầm tránh bom. Chính mắt tôi nhìn thấy. Khi chúng tôi tới gặp ông về vấn đề quân sự, thì sau khi chúng tôi báo cáo xong, ông nhất định mời về hầm của ông. Bắt đầu ăn, và bữa ăn thường kết thúc bằng việc ném hoa quả, đôi lúc vào tường và vào trần, bằng tay bằng muôi, bằng dĩa. Điều này làm tôi giận:

- Tai sao một lãnh tụ đất nước và một người thông minh có thể uống say đến thế này và cho phép mình làm những điều như thế?

Các tư lệnh mặt trận, bây giờ là các nguyên soái Liên Xô, cũng gần như phải trải qua những thử thách ấy, nhìn thấy cảnh tượng xấu hổ như thế. Việc này bắt từ năm 1943 và xảy ra sau này, khi Stalin tin chắc chúng tôi chiến thắng. Nhưng trước đây ông đi lại như một con gà rù. Lúc đó tôi không nhớ, liệu có bữa ăn nào đấy có uống rượu không. Ông bị ức chế đến nỗi, một hối tiếc đơn giản cũng không có.

Có một chi tiết, đặc trưng cho tính cách Stalin. Nhưng là mặt khác. Sau chiến tranh ở Ukraina nghề mỏ phát triển nhanh. Ukraina khôi phục nông nghiệp, công nghiệp, và cải thiện thích hợp mối quan hệ của Stalin với ban lãnh đạo Ukraina, kể cả tôi - Chủ tịch Hội đồng Dân uỷ CHXHCN Ukraina và Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản(b) Ukraina. Một lần, cãi nhau kịch liệt về nhà máy sản xuất máy kéo. Mikoyan nói về máy kéo diesel KD-35, sản xuất tại Belorussia. Đây là máy kéo tốt, nhưng đắt. Mikoyan khen ngợi máy kéo này. Stalin hỏi ý kiến tôi, và tôi cũng khoác lác với ông. Sự thật tôi thấy, máy kéo ấy vẫn còn chưa hoàn hảo công suất nhỏ, tuy động cơ diesel. Stalin cũng thích máy kéo diesel, vì rằng nhiên liệu rẻ hơn. Và bỗng nhiên Stalin nảy ra ý nghĩ (hoặc ai đấy đã nói với ông), rằng nên chuyển cho nhà máy khác sản xuất máy kéo diesel. Và Stalin đề nghị chuyển việc sản xuất những máy kéo ấy trước hết cho nhà máy Kharkov.

Tôi cố gắng chứng minh rằng không thể làm điều này. Dân uỷ máy kéo công nghiệp Akopov cũng phát biểu chống lại việc này và giúp tôi những số liệu cần thiết. Nhưng Stalin không nghe và ghi ý tưởng của mình vào nghị quyết Bộ chính trị.

Ý tưởng của ông, tuy nhiên, không được phổ biến cho thậm chí tất cả uỷ viên còn lại Bộ chính trị, trong số này có cả Beria, một điều hiếm xảy ra, cho nên họ cũng đứng về phía chúng tôi. Tranh luận kịch liệt. Sau một thời gian Stalin nhớ lại, hỏi:

- Đã chuyển cho nhà máy Kharkov sản xuất KD-35 chưa?

- Không - tôi nói - chưa chuyển.

Stalin nổi giận. Akopov bị khiển trách vì không thực hiện nghị quyết. Lúc ấy Beria, Malenkov và Mikoyan giơ tay: họ tính rằng đừng làm một cái gì cả một khi Stalin muốn điều này.

Tôi vẫn tiếp tục đấu tranh. Một lần Stalin, đang nghỉ ở Sochi, gọi tôi từ Ukraina đến đó. Tôi đến. Ở đó đã có Malenkov, sau đó thêm Beria và Molotov tới. Ông lại đặt vấn đề về vụ máy kéo và quát mắng tôi, như người ta nói là đánh tơi tả. Nhưng tôi chứng minh cho ông:

- Thưa đồng chí Stalin, đừng làm điều này, sẽ gây ra thiệt hại. Hãy nhìn xem, KD-35 có 35 mã lực, mà chúng tôi bây giờ cũng đã sản xuất tại nhà máy Kharkov máy kéo 54 mã lực. Mỗi ngày xuất xưởng 100 máy kéo. Nếu bắt đầu chuyển sang model mới, thì lại bắt đầu từ con số không, mất nhiều thời gian, và chính là chúng ta không đủ máy kéo. Nông nghiệp bị thiệt hại, giảm giảm năng suất lao động. Bây giờ một thợ lái lái máy kéo 54 mã lực, lại hoá ra lái máy kéo 35 mã lực. Máy kéo 54 sức ngựa kéo bộ cày 5 lưỡi, còn chiếc 35 ngựa trong trường hợp tốt nhất kéo được bộ cày 3 lưỡi, bình thường chỉ 2 lưỡi thôi. Như thế giảm năng suất lao động hơn 2 lần khi cày.

Nhưng Stalin vẫn khắc nghiệt.

Beria và Malenkov nói thầm với tôi:

- Đừng cãi nữa. Anh đâm đầu nhảy vào lửa đấy à? Anh cũng nhìn thấy, điều này là không thực tế.

Tôi vẫn bảo lưu ý kiến của mình. Và cũng đáng chú ý (đây cũng là tính cách của Stalin): con người này khi giận dữ có thể phạm tội ác lớn. Nhưng khi anh chứng minh sự đúng đắn và đưa cho ông những số liệu sống động để ông hiểu rõ, thì ông trở nên có ích và ủng hộ. Tôi hơi bất ngờ, mùa thu Stalin về Moskva và tôi cũng từ Kiev về. Chúng tôi gặp nhau. Tôi thấy Stalin ở tâm trạng tốt. Ông đi đi lại lại trong phòng làm việc của mình. Chúng tôi ngồi vào chỗ của mình. Bỗng nhiên ông nói:

- Thế nào, chú nhóc? (Ít khi ông dùng­ từ này). Có thể, chúng tôi nhượng bộ anh, đồ quỷ? - và chìa tay cho tôi.

Tôi quay về chứng minh sự cư xử tốt của ông.

- Được - ông tiếp tục - chúng tôi nhượng bộ anh về vụ máy kéo.

Nhưng sau này tôi nói với ông:

- Đồng chí Stalin, ông đã làm một việc tốt. Chúng tôi mất hang nghìn máy kéo, vì rằng thực tế nhà máy Kharkov ngừng sản xuất chúng.

Vâng, có những trường hợp như thế, khi kiên trì phản đối ông, và nếu ông vào sự sự đúng đắn của anh, thì ông sẽ từ bỏ quan điểm của mình và chấp nhận quan điểm của người đối thoại. Điều đó, tất nhiên, là phẩm cách tích cực. Nhưng, đáng tiếc, có thể đếm trên đầu ngón tay những trường hợp, xảy ra như thế. Thường là như thế này: quả là nếu Stalin nói, khôn hoặc dại, lợi hoặc hại, đằng nào cũng thế, bắt người ta làm. Và người ta đã làm như thế!

Một số người stalinit cho rằng đây là phẩm cách tốt đối với lãnh tụ. Tôi cho rằng đây là phẩm chất xấu. Bây giờ, khi tôi viết hồi ký của mình và cố gắng nhớ lại những thời điểm rõ ràng nhất của thời đã qua, thì tôi nhớ đến cả những người bị hại được kể trong đời sống xã hội. Về mặt tích cực trong cuộc sống Liên Xô, bây giờ tôi nói đến vì rằng nó được viết nhiều trong báo chí chúng tôi, có thể là, thậm chí có chút đánh bóng và tô hồng. Chính vì lịch sử phát triển nhà nước xô viết, chiến thắng CNXH ở Liên Xô mà chỉ nói đến những điều tích cực. Nếu ngoảnh lại nhìn con đường chúng ta đã đi sau 50, chúng ta đã trải qua và trưởng thành thì tất cả sẽ rõ hơn.

Có sự khác nhau trong việc đánh giá con đường đã qua ở chỗ một số cho rằng tất cả mọi chiến thắng - đúng là công lao của Stalin. Đúng, trong những thành công đó, công lao của Stalin cũng lớn. Nhưng đây là thành công của nhân dân, mà cơ sở của nó - Lenin, ý tưởng của ông. Bởi vì áp dụng ý tưởng của Lenin, họ cho những kết quả tich cực, dùng Stalin bóp méo quan điểm của Lenin và những chỉ dẫn của Lenin. Học thuyết Mác-Leninlà học thuyết tiến bộ nhất, làm phong phú nhân dân chúng tôi, củng cố và trang bị cho họ. Chính trên cơ sở học thuyết này chúng tôi đạt được những kết quả của mình.

Nhiệm vụ của một người viết hồi ký, tôi cho rằng phải nói hết những tặy tiêu cực của những sự kiện. Lúc ấy không phải là sai lầm, một là sự lạm quyền. Nếu như không có sự lạm quyền, mà Stalin đã làm, thì chúng tôi có có nhiều lần hơn những thành tựu cao. Chính thế tôi tập trung hồi ức lại để giúp đỡ loại trừ khả năng lặp lại những thiệt hại đối với cả giai cấp công nhân, cả nông dân, cả trí thức xô viết, tất cả nhân dân lao động Liên Xô và cả các nước xã hội chủ nghĩa khác, vì rằng Liên Xô đã đem những sai lầm của mình và sự lạm quyền của Stalin tới tất cả các nước anh em.




[i] Trụ sở chính của Cơ quan An ninh Quốc gia Liên Xô (gọi tắt là KGB) nằm ở quảng trường Lubyanka, trung tâm Moskva, cho nên khi nói Lubyanka là ám chỉ KGB. (ND)
[ii] Sau khi Stalin chết, nhà máy này đổi tên thành ZiL (Nhà máy sản xuất ô tô mang tên Likhachev), các ô tô tải của nhà máy này Zil-130 là lực lượng chính của bộ đội vận tải Trường Sơn  trong chiến tranh chống Mỹ ở Việt nam (ND)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét