Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2013

(4) HỒI KÝ KHRUSEV

HỒI KÝ KHRUSEV
Nhà xuất bản “VAGRIUS”, 1997 
Nguyễn Học (dịch từ bản tiếng Nga) 
Sau đó tôi viết điện mật gửi Stalin, viết về cuộc nói chuyện của chúng tôi. Có những tài liệu tôi bây giờ giữ trong trí nhớ. Tôi nghĩ rằng, tôi nói chính xác, kết luận có thể, trật tự của sự giãi bày. Tôi mô tả bản chất, như nó đã có trong đời. Thậm chí ông uỷ viên hội đồng quân sự, người giữ chức vụ cao, đã rét cóng. Không phải thể xác nhát gan, không, ông rét cóng về mặt tinh thần, mất tự tin về khả năng đánh lui cuộc xâm lăng của Hittler. Đáng tiếc, điều này khi đó không phải là trường hợp duy nhất. Cũng xảy ra những trường hợp như thế và với viên chỉ huy khác. Bầu không khí là như thế. Nhưng chúng tôi vẫn còn hàng chục ngày không ở trong trạng thái chiến tranh.
Tôi quay về tình hình mà tôi nói trước đây bằng sự mô tả trường hợp với ông uỷ viên hội đồng quân sự. Như vậy, chúng tôi nhìn thấy rằng quân địch hầu như không tiến hành những hành động tích cực chống lại tập đoàn quân Muzychenko và tập đoàn quân №12 Ponedenin. Có sự phớt lờ rõ ràng sườn trái chúng tôi từ phía bọn Đức. Nhưng họ hy vọng sau khi quân đoàn xe tăng thọc sâu cánh phải, bao vây bộ đội chúng tôi và tiêu diệt hai tập đoàn quân này.


Vì thế chúng tôi và tư lệnh quyết định rút tập đoàn quân №6, ban tham mưu của nó ở Lvov, còn bản thân quân đoàn đóng ở biên giới, bắc Peremyslя. Bộ đội của quân đoàn rút lui. Tôi không nhớ, họ rút lui bao nhiêu kilomet, nhưng kẻ địch thậm chí không đuổi theo họ. Và bỗng nhiên chúng tôi nhận chỉ thị từ Moskva - che giấu rằng bộ đội rút lui. Chấp hành lệnh - cho bộ đội quay lại để chiếm đường biên giới, như đã chiếm nó trước đây. Chúng tôi trả lời rằng:

- Vì cái gì mà phải chiếm nó? Không tiến hành các hoạt động quân sự chống hai tập đoàn quân này. Kẻ địch tập trung sức mạnh chính theo hướng Broda, mưu đồ của chúng thấy rõ. Địch có thể bao vây bộ đội chúng tôi, nhưng họ sau này không thoát khỏi đòn đánh vào sườn.

Nhưng người ta ra lệnh cho chúng tôi đưa tập đoàn quân quay lại, và chúng tôi đã làm điều này. Tôi rất giận và cay đắng chấp hành như thế. Trong tôi có ấn tượng rằng hai tập đoàn quân có thể chết. Họ sẽ đánh nhau trong vòng vây, nhưng họ không được sử dụng một cách hiệu quả như chúng tôi đưa họ về hướng đánh chính của quân thù. Tuy nhiên mệnh lệnh là mệnh lệnh và chúng tôi thực hiện nó.

Tôi giả thiết rằng khi đó (bây giờ tôi không nhớ, có phải chính Zukov gọi điện từ Moskva về vấn đề này?), Zukov không đúng. Tôi mang trong mình ý nghĩ này suốt nhiều năm, và khi cách chức Zukov năm 1957, tôi phát biểu phê bình hoạt động của ông, quay về thời điểm những ngày đầu chiến tranh, cấm rút quân đội khỏi khu vực Peremyslя và Lvov. Do tập đoàn quân №6 bị tiêu diệt sau đó trong vòng vây, cũng như cả tập đoàn quân №12 cũng chết. Tôi nói:

- Một người chỉ huy có khả năng như Zukov, mà cũng mắc sai lầm.

Ông trả lời:

- Đó không phải là sáng kiến của tôi, đó là chỉ thị của Stalin.

Bây giờ tôi không thể tranh cãi với ông ấy, nếu như đó là chỉ thị của Stalin. Có thể, tất nhiên, có những cái như thế, nhưng trên cơ sở báo cáo của Zukov, vì rằng Zukov vừa mới từ mặt trận quay về Moskva, và, tôi nghĩ, trong vấn đề này ông là cố vấn chính. Nếu ông nói rằng lệnh của hội đồng quân sự Quân khu đặc biệt Kiev là đúng, thì Stalin, để tránh những tập đoàn quân này bị bao vây, có thể là, và không đưa chỉ thị của mình cho tập đoàn quân quay lại. Nhưng bây giờ tôi không biết cụ thể người khởi xướng mệnh lệnh này và, tiếp theo, người có tội thật về cái chết của hai tập đoàn quân, rơi vào thế bị bao vây sau đó.

Bạn có thể hình dung thời kỳ nặng nề đối với chúng tôi, khi Hittler huy động những binh đoàn cơ giới hoá cao và sung sức đánh nhau với chúng tôi, chúng tôi bị tước đoạt sức mạnh của hai tập đoàn quân №6 và №12? Họ rút lui, quân Đức tấn công họ và cuối cùng bao vây họ trong vùng Umani. Cả hai tập đoàn quân cùng với ban tham mưu và chỉ huy bị bắt làm tù binh. Nếu chúng tôi có thể trước đây dùng tập đoàn quân №6, thì có thể lấy một phần của nó những sư đoàn, để tổ chức đánh vào sườn kẻ thù trong vùng Broda. Không biết, cái gì xảy ra. Nếu thậm chí chúng tôi không cầm giữ quân thù hoàn toàn và không đánh tan nhóm này, thì trong mọi trường hợp chúng tôi cũng làm kiệt sức quân Đức một cách đáng kể và cầm chân trong một thời gian nào đấy. Tại hướng chúng tôi, có một bầu không khí hoàn toàn khác. Nhưng chúng tôi bị loại bỏ bởi những khả năng như thế. Vì sao tôi nói điều này? Ít người tin chúng tôi. Sự can thiệp từ trên có một phần, và không phải luôn luôn nó là khôn ngoan, hợp lý. Sự can thiệp, đáng giá nhiều mạng sống và máu. Lúc ấy - trong đầu tiên, nhưng tiếp theo, tôi sẽ dẫn thêm nhiều trường hợp khác, cũng đáng giá hàng nghìn, hàng nghìn nạn nhân, mà những trường hợp này là hoàn toàn không cần thiết và có thể tránh được, nếu như có lòng tin vào chỉ huy mặt trận và hội đồng quân sự của họ.

Sau một vài ngày, lại không phải theo sáng kiến của mình mà theo chỉ thị từ Moskva, chúng tôi rút lui từ chỉ huy sở. Họ ra lệnh cho chúng tôi chuyển ban tham mưu về Proskurov, có nghĩa là chúng tôi rút về sâu. Chúng tôi ngạc nhiên, bởi vì tại hướng chúng tôi, tình hình chưa đến nỗi xấu như thế, liệu có buộc phải áp dụng những biện pháp: rút lui và bố trí ban tham mưu vào sâu sau những quân đoàn chúng tôi. Nhưng đó là chỉ dẫn từ Moskva. Tôi không nhớ, gửi cho ai, nhưng tất cả cho rằng gọi từ Moskva, nghĩa là - chỉ thị của Stalin. Chúng tôi rút lui và di chuyển. Đó là một bức tranh khủng khiếp. Hàng trăm ô tô di chuyển từ tiền tuyến về phía sau cùng với các gia đình sĩ quan. Có nhiều gia đình sĩ quan ở Lvov, Drogobychе, Peremyslе. Cùng đi với họ là những người chạy nạn. Nhưng không có nông dân trong số này. Nông dân miền tây Ukraina không đi khỏi bọn Đức. Hình như điều này liên quan tới kết quả sự tuyên truyền những người dân tộc chủ nghĩa Ukraina, những người chờ đợi bọn Đức với cảm tình hơn chúng tôi. Nông dân bị lừa bằng lời hứa rằng Hittler sẽ giải phóng Ukraina. Nọn dân tộc chủ nghĩa Ukraina và bọn tuyên truyền lừa phỉnh nông dân như thế đấy.

Ngay khi chúng tôi đến Proskurov và triển khai ban tham mưu, thì Stalin gọi. Tôi nói chuyện với ông. Stalin nói:

- Anh bây giờ đi về Kiev và ở Kiev nhanh chóng tổ chức phòng thủ mó.

Chúng tôi đã làm như thế, mặc dù không biết cái gì được làm ở sườn phải của mặt trận. Tình thế ở mặt trận phía Tây, chúng tôi cũng không biết. Chúng tôi về Kiev, còn quân địch di chuyển theo chúng tôi đúng theo dấu vết, nhưng theo con đường khác: chúng tôi - theo Tarnopolsk, còn địch, tiêu diệt lực lượng chúng tôi ở hướng Broda-Rovno-Korosten. Đi lên phía bắc với tốc độ lớn. Và dưới Kiev tình hình chính xác là không còn tin cậy.

Bây giờ tôi không thể nói, ngày chiến tranh là như thế nào. Bộ đội thực tế không có, mặt trận bị vỡ. Kẻ địch vượt lên phía trước bằng quân đoàn cơ động, còn bộ đội chúng tôi nằm xa về phía sau lưng chúng và ở đó tiến hành chiến đấu. Kẻ địch tiến gần Kiev, vượt qua Irpen. Sông Irpen - không lớn, nhưng lầy lội. Trước con sông này, ngay từ năm 1928-1930 đã xây dựng một vùng phòng thủ vững chắc thuộc Kiev. Ở đó có hầm ngầm bê tông và phá, nhưng có trước đây thôi: chúng đã bị phá huỷ đề nghị của Mekhlix. Stalin ra lệnh tháo bỏ chúng, để sự chỉ huy chúng tôi không nhìn về phía sau, còn dồn sức củng cố sự vững mạnh biên giới mới, mà chúng tôi đã có được do sự thất bại chẳng Ba Lan trước Đức. Còn bây giờ, khi chúng tôi cần khu vực phòng thủ vững chắc như thế, thì nó lại bị phá huỷ. Công sự bê tông được giữ lại, nhưng vũ khí trong đó thì không có: không pháo, không súng máy và không có bộ đội. Vì thế chúng tôi bắt đầu thu nhặt đúng là tất cả những gì có thể: súng trường, pháo v.v… để phòng thủ.

Người ta bổ nhiệm tướng Parusinov chỉ huy khu này. Bây giờ tôi không biết một tí gì về ông. Ông khi đó đã có tuổi. Tôi có ấn tượng tốt về ông. Nhưng ở thời điểm đó, ông nhận việc hậu cần. Tôi không nhớ, chức vụ của ông được gọi như thế nào khi đó. Theo tôi, thủ trưởng hậu cẩn mặt trận, nhưng không đúng lắm. Nhưng chúng tôi cũng không có người khác và chúng tôi bổ nhiệm ông. Ông có lần phân tích cái gì chúng tôi có và cái gì chúng tôi gom được xây dựng phòng thủ thành phố. Nhưng quân Đức bố trí bên bờ tây sông Irpen. Quân Đức không tiến hành một mưu toan nào cả vượt sông Irpen. Một chiếc cầu ở đó bằng gỗ ọp ẹp. Chúng tôi cho nổ nó, tất nhiên. Tôi nghĩ rằng quân Đức đột phá tất cả bằng một số xe tăng tiên tiến, nhưng bộ binh họ không có, và vượt qua trở ngại này (tôi đã nói, không phải là sông mà là bùn) họ không bắt đầu.

Tình hình của chúng tôi là nặng nề nhất. Có người nói đùa rằng, địch đến Kiev, vượt qua sông Irpen! Trong thành phố được bắt đầu hoảng loạn. Điều này là đương nhiên. Tôi nhớ, vào ban đêm (tôi ngồi trên ghế băng) tướng Astakhov tư lệnh không quân Quân khu đặc biệt Kiev đến gặp tôi. Ông là một con người đứng đắn, tận tâm, vẻ bề ngoài chững chạc và mập mạp. Ông theo bề ngoài của mình dường như tượng trưng cho sự điềm tĩnh. Ông nói:

- Chúng tôi đã bị gần như mất sạch máy bay trong các trận chiến đấu. Nhưng bây giờ quân địch không cho chúng tôi mũi hở ra nữa.

Và khóc nức nở. Tôi bắt đầu an ủi ông, nhưng sau đó quát ông ta:

- Hãy bình tĩnh, đồng chí Astakhov! Hãy nhìn, mọi người đi lại, nhìn thấy một viên tướng trong trạng thái như thế. Chúng ta phải chiến đấu phải và, tiếp theo, phải làm chủ bản thân.

Đối với ông, điều này có tác dụng, nhưng mãi một lúc lâu, ông vẫn chưa bình tâm. Astakhov - một con người rất hiểu biết công việc. Nhưng trước đây ông là người tự tin, như những người khác, chúng tôi kênh kiệu rằng biên giới chúng tôi “bị khoá”, như lời bài hát, và rằng chúng tôi sẽ chiến đấu trên vùng đất lạ. Và bỗng nhiên chúng tôi chỉ sau một vài ngày bắt đầu chiến tranh lại dồn về Kiev. Trong tình thế bằng cách nào đó giữ Kiev, không có lực, không vũ khí, không bộ đội.

Tất cả những gì, chúng tôi có thể, chúng tôi mang ra để tổ chức phòng thủ Kiev. Kiev không đầu hàng! Hãy chống cự kẻ thù! Chúng tôi xây dựng tuyến phòng thủ từ phía tây theo dòng chảy sông Dnepr, bên phải Kiev, có sườn phải cao hơn thành phố. Nhưng từ phía nam đến bờ nam của Kiev có một khoảng không tương đối lớn, mà bộ đội chúng tôi chiếm giữ. Trước hết, theo hướng này rút lui tập đoàn quân №6 và №12. Họ bị bao vây, nhưng vẫn đánh nhau và gây cho địch tổn thất tương đối lớn. Chúng tôi tổ chức công việc sao cho từ phía đông xé tung vòng vây và giúp những tập đoàn quân này thoát khỏi khỏi vòng vây. Trong quá trình rút lui, ban tham mưu của hai tập đoàn quân được sát nhập.

Để bảo vệ Kiev chúng tôi quyết định xây dựng tập đoàn quân mới và đặt tên nó là №37. Chúng tôi bắt đầu tìm kiếm tư lệnh. Chúng tôi cùng với Kirponos đề nghị một loạt tướng, những người đã mất quân của mình và ở trong sự sắp xếp. Trong số đó, gây ấn tượng rất tốt là Vlasov. Và chúng tôi quyết định bổ nhiệm chính Vlasov làm tư lệnh. Ban cán bộ của Quân khu đặc biệt Kiev cũng giới thiệu ông và đưa ra tính cách có ưu thế hơn người khác. Tôi không biết Vlasov, không biết các tướng “tự do” khác, thậm chí tôi không nhớ họ tên của họ nữa. Nếu yêu cầu bằng chứng, thì tôi có người làm chứng, bây giờ vẫn còn sống, khoẻ mạnh, và tôi mong ông sống đến nghìn tuổi - Ivan Christoforovich Bagramian. Ông là khi đó theo chức danh là trung tá trưởng bộ phận tác chiến thuộc ban tham mưu mặt trận Tây Nam. Một người rất đứng đắn, một cán bộ quân sự tốt, và tác chiến giỏi, có vai trò lớn trong việc tổ chức chống cự cuộc xâm lăng của Hittler trên khu vực ông được trao làm việc này.

Và dù sao chăng nữa tôi quyết định hỏi Moskva. Chúng tôi khi đó có một ấn tượng là ở khắp mọi nơi đều có kẻ thù nhân dân, đặc biệt trong hồng quân. Và tôi quyết định hỏi Moskva, xem có tài liệu nào về Vlasov, tính cách ông ta ra sao, có thể tin Vlasov được không và bổ nhiệm làm tư lệnh tập đoàn quân bảo vệ Kiev. Bộ đội - không có, phải gom nhặt họ, và tất cả phải làm ban chỉ huy mới. Tôi gọi điện cho Malenkov, gọi mãi mà không có ai. Bởi vì Malenkov làm về tổ chức cán bộ Ban chấp hành Trung ương, câu hỏi này cũng phải tới ông. Sự thật ông cũng chẳng biết gì về Vlasov, nhưng những người trong Bộ tổng tham mưu làm về tổ chức cán bộ cần phải nói cho ông suy nghĩ của mình. Tôi hỏi Malenkov:

- Có thể, nhận ra Vlasov có tính cách gì?

Malenkov trả lời:

- Anh đơn giản không giới thiệu cái gì ở đây được làm. Không thể biết ai và cái gì cả. Vì thế hãy nhận về mình hoàn toàn trách nhiệm và hãy làm nếu anh xem là cần thiết.

Ở tình thế công việc như thế, mặc dù tôi không có số liệu nào về Vlasov, chúng tôi biết rằng quân đội giới thiệu chính ông. Vì thế chúng tôi và Kirponos quyết định bổ nhiệm Vlasov chỉ huy tập đoàn quân №37. Ông bắt đầu tiếp nhận casc chiến sĩ từ các bộ phận rút lui hoặc thoát khỏi vòng vây. Sau đó nhận sự bổ xung nhận nào đấy. Chẳng bao lâu, có mặt một quân đoàn bộ binh nguyên vẹn dưới sự chỉ huy của tướng Kylesov. Quân đoàn này đến từ bắc Kavkaz. Quân đoàn là tốt, nhưng thiếu chuẩn bị. Về mặt tinh thần quân đoàn chưa được chuẩn bị, chưa từng trải, điều này đương nhiên, thì chiến tranh bắt đầu. Chúng tôi đưa nó vào vùng phòng thủ vững chắc Kiev và đặt vào vùng xung yếu nhất - bảo vệ rừng Goloseevsky, đường tiến trực tiếp đến Kiev từ phía nam. Chúng tôi chờ đợi cuộc tấn công không phải từ phía bắc. Ở đó điều kiện thiên nhiên khó khăn, chúng tôi được che chở bởi Irpen. Sau đó ở đây có tập đoàn quân №5 trong trạng thái tương đối đầy đủ. Chỉ huy viên nó là tướng Potapop.

Láng giềng của ông tại tiền tuyến là tư lệnh Muzychenko. Trước chiến tranh, người ta nghi ngờ Muzychenko: phải chăng ông là kẻ phản bội trong hàng ngũ Hồng quân? Vì sao mà người ta nghĩ như thế? Trước chiến tranh ông vào bộ đội, để rèn luyện, hay thuần tuý kiểm tra ở biên giới. Ban tham mưu tập đoàn quân №6 đóng ở Lvov. Ở nhà, ông có một người vợ. Nhưng ông còn lại còn có một phụ nữ - nội trợ. Một thanh niên như thế này mà theo đuổi cô ta, và cũng chẳng có gì trái với quy luật tự nhiên. Hình như Muzychenko và vợ lại liên quan tới điều này. Nhưng, như được thấy, việc theo đuổi này không đơn giản chỉ là sự hào hứng. Ở đây sự theo đuổi lại vì mục đích chính trị, tình báo. “Người theo đuổi” này đã chọn thời điểm, khi Muzychenko đi bộ đội (trước đó ông có cho mình cái quyền vào nhà và làm quen những người trong gia đình liên quan tới sự xuất hiện của ông), và xuất hiện vào ban đêm. Vợ của Muzychenko đang ngủ. Bỗng nhiên cửa mở, ông đi vào giường ngủ và hỏi chìa khoá két sắt. Bà khiếp sợ. Sau đó bà nhớ lại thế này:

- Tôi đang ngủ. Không quần áo. Ông đến, láo xược ngồi lên giường và giọng khá lễ độ, bắt đầu nói chuyện. Ông không thể hiện một ý đồ đén danh dự của tôi và nói chuyện nhã nhặn nhưng đòi chìa khoá. Tôi nói với ông, rằng tôi không có chìa khoá. Người chỉ huy không bao giờ bỏ quên chìa khoá, nữa là tôi, ông luôn luôn mang chúng theo người hoặc gửi đâu, tôi không biết. Tôi cũng không có liên quan gì đến chìa khoá và chẳng thể nào thực hiện yêu cầu của ông. Ông vẫn kiên trì đòi chìa khoá, mặc dù ông đã pha trò để không doạ, có thể là, tôi bình tâm, để tôi trả ông chìa khoá. Sự việc kết thúc, ông ra đi.

Điều này được mô tả tương tự, hình như trong lưu trữ của cơ quan an ninh: vợ Muzychenko đưa chứng cớ. Cô gái ô-sin bỏ chạy. Lúc đó rõ ràng là cô gái này được bọn dân tộc chủ nghĩa Ukraina mật phái đến. Cô ta cũng dẫn dắt điệp viên này của tình báo Đức, kẻ muốn chiếm chùm chìa khoá nhưng không nhận được nó. Khi Stalin biết về trường hợp này, thì ông hỏi tôi về việc Muzychenko. Tôi trả lời rằng chúng tôi tuyệt đối không có dữ liệu nào để nghi ngờ vị tướng. Tôi đã dò hỏi nhiều người, và tất cả đều đánh giá ông ta có tư cách tốt ở vị trí quân nhân, vị trí con người và vị trí Đảng viên. Ở đây, hình như hiện diện một cách đơn giản sự trơ trẽn của tình báo nước ngoài. Vợ ông cũng không thể là điệp viên. Không có tư liệu gì cả về điều này. Những người biết bà, cũng nói rằng bà là một phụ nữ đứng đắn. Vấn đề Muzychenko đứng trước một con dao sắc: dùng ông hoặc cách chức chỉ huy tập đoàn quân? Người ta suy nghĩ khá lâu và dù sao chăng nữa quyết định giữ ông lại. Muzychenko tiếp tục chỉ huy tập đoàn quân №6. Ông có được sự tín nhiệm hoàn toàn, dù có sự cố này, hoàn toàn, bỏ lại dấu tích, nhưng trong công việc, tôi nghĩ, cũng chưa bị cắt hết. Sau vụ này tôi tin tưởng ông như trước kia.

Bây giờ tập đoàn quân của ông tác chiến ở nam Kiev. Nguy hiểm chủ yếu đối với Kiev chính là từ phía nam, từ phía Nhà thờ trắng. Việc xây dựng phòng thủ được triển khai cả ở đấy. Sau một thời gian quân Đức kéo quân và khởi đầu trực tiếp chiến dịch chiếm Kiev. Tôi nhớ rằng khi đó tình hình khó khăn theo hướng Nhà thờ trắng, chúng tôi và Kirponos quyết định đến chỗ bộ đội, đánh giá tình hình và áp dụng các biện pháp bộ đội chúng tôi không bỏ chạy. Trong thời gian này ban chỉ huy mặt trận nằm ở Brovar, bên bờ đông sông Dnepr, cách Kiev 25 km theo hướng Chernigov. chỉ huy sở bằng bê tông, được xây dựng cơ bản trong thời gian hoà bình dành cho ban tham mưu Quân khu đặc biệt Kiev trong Sviatosino, bây giờ là chỗ ban tham mưu tập đoàn quân №37. Tôi không nhớ tên tham mưu trưởng tập đoàn quân, nhưng ông cũng gây ấn tượng tốt với tôi.

Chúng tôi tới ban tham mưu tập đoàn quân cùng với Kirponos và trước tiên gặp tham mưu trưởng. Vì lý do gì không có mặt người chỉ huy tập đoàn quân. Sau đó ông cũng đến. Vlasov trình bày tình hình, nói tương đối bình tĩnh, và tôi thích. Giọng ông tự tin và ông nó với sự hiểu biết công việc. Chúng tôi đề nghị đi đến khu rừng Goloseevsk, nơi bố trí một quân đoàn bộ binh gồm 3 sư đoàn. Trước đó, chúng tôi đã đến quân đoàn Kylesov. Tại lần chạm trán đầu tiên với quân địch, các chiến sĩ của quân đoàn này thể hiện mình rất kém. Khi hoảng loạn, quân đoàn rút lui. Phát sinh sự nguy hiểm là mọi người chạy tán loạn. Lúc chúng tôi đến đó để vãn hồi trật tự. Một toà án quân sự được lập ra. Đội quân đánh chặn được mang ra. Tất cả các biện pháp được chấp nhận trong trường hợp như thế để phục hồi trật tưh và kỷ cương, kỷ luật đã được sử dụng. Biện pháp cứng rắn! Phiên toà diễn ra trên chiến trường. Lúc ấy những nghiệt ngã bản án được thi hành, những bản án đó là cần thiết chỉ trong những tình thế khó khăn như vậy. Chúng tôi nhận thấy Kylesov chỉ huy kém quân đoàn. Có thể khi đó chúng tôi nóng nảy, vì rằng ông không có kinh nghiệm, cũng như quân lính của ông. Ông cũng là một người chưa từng trải. Chúng tôi cách chức ông và bổ nhiệm người chỉ huy mới quân đoàn. Bây giờ tôi không nhớ họ tên của ông, về dân tộc ông là người Do Thái.

Khi chúng tôi đi đến đó lần thứ hai, thì chỉ huy quân đoàn là một chỉ huy mới. Vlasov cùng đi với chúng tôi. Tình hình thế này: quân Đức bắn pháo cối và dùng máy bay ném bom khu vực này. Khi chúng tôi đến gặp viên chỉ huy, ông ngồi trên một cái ghế dã chiến, còn chiếc bàn trước mặt ông phủ vải điều. Có một chiếc điện để trên. Có một chiếc hầm được đào. Có một số người ở đó với ông. Ông báo cáo tình hình cho chúng tôi. Trong thời gian này quân Đức bắn chúng tôi bằng súng cối và súng máy, nhưng không nhìn thấy chúng, chỉ nghe tiếng ầm ầm trong rừng. Vlasov giữ bình tĩnh (tôi nhìn quanh ông ta). Ông ta có một chiếc ba toong cắt ra gỗ cây phi tử. Ông dùng ba toong này gõ nhè nhẹ ủng. Sau đó ông đề nghị chui vào hầm để tránh những điều rủi ro. Một mảnh đạn bất kỳ có thể đâm vào chúng tôi. Chúng tôi nghe lời khuyên của ông, leo vào hầm. Ở đó chúng tôi nghe báo cáo. Người chỉ huy quân đoàn gây cho tôi một ấn tượng rất tốt bằng sự bình tĩnh, tự tin và hiểu biết tình hình. Chúng tôi ra đi, chúc ông thành công.

Budienyi đến gặp chúng tôi trong khi cuộc chiến đấu phòng thủ Kiev. Tôi hỏi:

- Cái gì đã được làm ở mặt trận khác? Tôi không biết một cái gì cả, không nhận được thông tin gì cả. Ông, Semen Mikhailovich, từ Moskva. Liệu ông biết chứ?

- Đúng, tôi biết và tôi sẽ kể cho anh.

Và ông từng chuyện một kể cho tôi rằng mặt trận phía tây đúng gục trong trận đọ súng đầu tiên và bị băm nhỏ ra. Ở đó không thể tổ chức những sự chống cự cần thiết đối với địch. Địch lợi dụng sự ngơ ngá của chúng ta và đã tiêu diệt không quân tiền tuyến của chúng ta bay ở nhiều, cũng còn gây ra những tổn thất lớn cho bộ đội mặt đất từ 22 tháng sáu, ngày tấn công đầu tiên. Mặt trận tan vỡ. Stalin cử Kulik đến đó để giúp bổ xung quân số. Nhưng tôi không có một tin tức gì cả về nguyên soái Kulik. Cái gì xảy ra với ông, tôi không biết.

Tôi thương xót:

- Tiếc quá, Kulik bị giết.

Budienyi nói:

- Nhưng anh đừng thương xót ông ta.

Và điều này được nói bằng giọng như thế để hiểu rằng ở Moskva người coi Kulik là kẻ phản bội, rằng ông, hình như bán mình cho kẻ địch. Tôi biết Kulik, coi ông là một người tự trọng và vì thế tôi nói rằng tôi thương ông ta.

- Này, anh đừng thương ông ta, đừng thương ông ta - Budienyi nhắc lại.

Tôi hiểu rằng, hình như ông có một cuộc nói chuyện nào đấy về điều này với Stalin.

Vì cái gì Budienyi đến, khó nói. Ông lưu trú ở chúng tôi ngắn ngủi. Nhưng một buổi chiều ông hỏi:

- Chúng ta sẽ nghỉ ngơi ở đâu nhỉ? Thôi chúng ta cùng nhau ngủ.

Tôi đồng ý.

- Nhưng ở đâu? Chỗ anh à? Anh nghỉ ở đâu?

Tôi nói:

- Chỗ đấy chỗ nọ tôi thường nghỉ.

Chúng tôi đi khỏi nhà. Nhìn bề ngoài đây là một cái lều dã chiến và bên trong chất cỏ khô.

- Ở đây tôi cũng hay ngủ trong lều.

- Anh ở thế này ư?

Tôi giải thích cho ông: ở đây, nơi đóng ban tham mưu của chúng tôi, bùn lầy, không thể đào hầm, vì có nước. Vì thế tôi ngủ trong một trong lều dưới hầm tránh bom. Budienyi nói:

- Thôi được. Nếu anh ở đây, tôi cũng ở cùng với anh.

Và chúng tôi ngủ một vài giờ, nghỉ ngơi. Sáng sớm, chúng tôi bị đánh thức bởi không quân Đức. Máy bay lượn trên làng mạc và ném bom. Phòng không chúng tôi bắn trả. Chẳng thấy trúng viên nào vào máy bay cả. Còn máy bay của chúng tôi không xuất hiện. Tôi giận và nổi khùng về điều này. Tôi hỏi Astakhov:

- Thế này là thế nào? Vì sao bọn chúng bay và ném bom mà không bị đánh trả, chúng ta không thể làm một cái gì được à?

Quân Đức ném bom xong và bay đi. Astakhov báo cáo:

- Chừng này máy bay bị bắn rơi.

Tôi hỏi:

- Rơi ở đâu? Tôi không thấy chúng bị rơi.

- Chúng rơi ngoài sông Dnepr.

- Hừ, nếu chúng rơi sau sông Dnepr, thì có thể báo cáo, chúng bị rơi thậm chí nhiều hơn.

Tôi nghĩ rằng Astakhov đã có lỗi. Có thể tiêu diệt được một cái gì đó, nhưng tôi rất thất vọng về lời nói của ông ta, và tôi nói:

- Các chiến sĩ nhìn thấy quân Đức bay mà không bị đánh trả như thế nào, còn chúng ta không gây cho địch tổn thất.

Chẳng bao lâu sau, Budienyi ra về. Ông không thăm bộ đội, mà quay về Moskva. Ông đến đây với nhiệm vụ gì (không thể đây là chuyến tham quan), tôi không biết, còn ông không nói gì với tôi về điều này. Đơn thuần người ta nói chuyện với ông. Ông nghe tình hình, nghe tư lệnh quân đoàn và trong ban tác chiến Bagramian. Cuộc nói chuyện của ông với Bagramian gây cho tôi ấn tượng nặng nề. Tôi nhớ rất rõ không thể nào quên. Việc xảy ra sau bữa ăn. Budienyi nghe Bagramian báo cáo tình hình. Bagramian - một người rất trung thực, trình bày tất cả, những gì về bộ đội chúng tôi khi đó: mối thiện cảm của họ, tình hình. Lúc ấy Budienyi ép Bagramian. Cớ gì, tôi không biết cụ thể. Tôi đặc biệt khi đó, không thêm ý nghĩa của cuộc nói chuyện này. Theo cách nói quân sự điều này có nghĩa là: am hiểu tình hình. Trưởng ban tác chiến báo cáo tình hình cho nguyên soái Liên Xô, được Moskva cử đến.

Tôi chỉ nhớ việc xem xét tình hình được kết thúc bằng những lời thế này:

- Các anh thế này ư? Các anh không biết bộ đội của mình.

- Tôi không biết trình bày với đồng chí như thế nào, đồng chí nguyên soái - Bagramian trả lời.

- Đấy, tôi nghe anh, tôi nhìn anh và tôi cho rằng - phải bắn anh. Phải bắn vì những việc như thế này - Semen Mikhailovich nói bằng cái giọng the thé như thế.

Bagramia nói:

- Vì cái gì ạ, thưa Semen Mikhailovich, bắn tôi? Nếu tôi không có khả năng làm trưởng ban tác chiến, ông cứ cho tôi một sư đoàn. Tôi là trung tá, tôi có thể chỉ huy sư đoàn. Nhưng vì cớ gì lại bắn tôi?

Budienyi vẫn theo cách thô lỗ thuyết phục Bagramian để người ông chấp nhận bị đem bắn. Tất nhiên, Bagramian không thể nào đồng ý. Tôi thậm chí ngạc nhiên, vì sao Semen Mikhailovich cứ khăng khăng như thế để đạt được “sự đồng ý” của Bagramian. Tất nhiên phải tính rằng cuộc nói chuyện “nhã nhặn” giữa nguyên soái Liên Xô và ông trung tá xảy ra sau rất bữa ăn sang trọng có rượu cô-nhắc. Và dù sao chăng nữa, dù tình tiết thế nào đi nữa, kiểu đàm phán không chấp nhận được. Ông là đại diện Tổng hành dinh và, tất nhiên, không phải chịu bài toán đang đứng trước và không thể giúp đỡ công việc và cả cho quân đội chúng tôi. Điều này cũng chứng minh rằng có một trạng thái nào đấy ở mọi người. Semen Mikhailovich khi đó hoàn toàn vượt qua giới hạn cho phép. Nhưng chúng tôi đơn giản và nhìn cuộc nói chuyện này một cách không nghiêm túc. Mặc dù ông cũng đụng chạm cuộc sống của một con người, tuy nhiên không gây hậu quả. Semen Mikhailovich đi khỏi, còn chúng tôi ở lại trong tình thế nặng nề như trước đây, sau khi ông đến, cũng chẳng xấu hơn mà cũng chẳng tốt hơn.
Bước ngoặt Stalingrad



Trước khi bắt đầu cuộc phản công, tâm trạng chúng tôi nâng lên rất cao. Chúng tôi từ giã, chúc mừng nhau thành công và lên đường. Tôi ngồi vào xe cùng Popop, Vasilevsky đi tới Tolbukhin. Chúng tôi quay về lúc hửng sáng. Đường tốt, phẳng. Thảo nguyên. Xe chúng tôi đi vùn vụt với tốc độ lớn. Chúng tôi đến Trufanov. Tất cả đã sẵn sàng, được sắp xếp nghiêm ngặt, mọi người ở tại chỗ, các bộ phận nhận nhiệm vụ của mình. Chờ đợi thời gian bắt đầu chiến dịch. Chúng tôi quyết định hạn chế pháo bắn mở màn. Không thể dùng không quân, vì rằng buổi sáng mây mù và không thể bay được. Chúng tôi sợ không quân ném bom nhầm vào bộ đội ta.

Chúng tôi, tất nhiên, bị thiệt lớn là không quân chúng tôi không thể giáng đòn tiền duyên của địch. Điều này còn gây cho địch rối loạn lớn, gây hoảng loạn trong quân đội Rumani và làm dễ dàng việc đột phá tuyến phòng thủ của chúng. Nhưng lại không có khả năng như thế. Tuy nhiên chúng tôi cho rằng dùng pháo chúng tôi có khả năng đột phá tuyến phòng thủ, sau đó ngay lập tức dùng bộ đội xe tăng đột phá nó, sau xe tăng, khi chúng bị tung ra, dùng kỵ binh - đưa quân đoàn kỵ binh vòng sau lưng địch để làm rối loạn hậu phương của nó.

Đến ngày 20 tháng 11. Chúng tôi và tư lệnh tập đoàn quân ngồi ở sở chỉ huy của nó. Tất cả đã sẵn sàng. Pháo binh, như người ta nói, chia thành trung đội, bộ binh, quân đoàn cơ giới và quân đoàn kỵ binh chiếm lĩnh vị trí. Đây rồi, tín hiệu được phát ra bằng đạn tên lửa và pháo binh nhả đạn. Tôi có ấn tượng rằng mặt đất rung lên. Chúng tôi bắn rất mạnh. Nhưng tôi không nhớ bao nhiêu cỗ pháo trên một kilomet trên trận tuyến. Sau này, khi đánh nhau dưới Kiev, chúng tôi đặt ở hướng chính 370 họng súng trên một kilomet. Sau đó cũng một số lượng này vượt hơn. Lúc ấy không có đến một nửa. Nhưng vào thời gian này như thế là nhiều vì đây là sức mạnh pháo lớn. Và quả là, kẻ địch bị hoảng loạn. Cuộc mở màn bằng pháo kết thúc và chúng tôi ra lệnh bộ binh chiếm công sự địch. Bộ binh, bây giờ tiến lên, không gặp một kháng cự đáng kể từ phía quân Rumani. Quân Rumani dóng ở một vị trí tương đối thuận lợi. Thứ nhất, họ đào công sự kịp thời. Thứ hai, ở trên đất cao. Vùng đất tuy không lớn, nhưng dù sao chăng nữa, họ quan sát địa hình phía trước tốt hơn chúng tôi, quân đội chúng tôi cần khắc phục ban đầu sự đi lến trên để chiếm vị trí của chúng. Lợi thế về địa hình thuộc về phía địch, và nó có khả năng lựa chọn, khi phòng thủ.

Bộ đội chúng tôi bị vùi trong công sự và đánh giáp lá cà. Kẻ địch rút lui. Chúng tôi ra lệnh Volkovsk đưa quân đoàn cơ giới vào để đột phá. Chúng tôi chờ, xe tăng chẳng còn nữa. Chúng tôi у lo lắng. Thế nào đây? chúng tôi có lẽ mất thời gian. Kẻ thù có thể tập hợp lại và xây dựng phòng thủ mới ở chỗ xa phía sau, bỏ lại khu vực đằng trước. Chúng tôi giả thiết rằng địch có ở đấy những vị trí được trang bị trước đó. Nhưng xe tăng không còn. Cái gì thế? Trời sáng. Mặt trời lên dần. Cũng khó quan sát, vì sương mù, nhưng tất cả báo hiệu rằng sương mù sẽ nhanh chóng tan đi. Nhưng quân đoàn cơ giới không cách nào đột phá! Chúng tôi và Popop quyết định: ngồi vào xe và tới gặp Volsky. Chúng tôi biết ông ở đâu. Chúng tôi theo lữ đoàn của ông và đúng, như người ta nói, chúng tôi sẽ huých chúng vào lưng hoặc vào chỗ khác để đẩy nhanh cuộc xuất phát.

Khi chúng tôi và Popop đến chỗ đóng quân bộ đội xe tăng, thì cách tổ chức của họ gây cho tôi ấn tượng không hay, căn cứ mà như thế này ư. Tất cả được nhìn thấy rõ, trên cánh đồng chẳng có lấy một bụi cây nhỏ, và tăng, và ô tô, và người đều phơi ra. Chúng tôi gặp may, thời tiết không phải mùa hè và máy bay địch không xuất kích. Nếu máy bay địch đến, thì tôi không biết là nó có ném bom vào quân đoàn xe tăng không, còn về kỵ binh cũng nói một cái gì đó. Tất nhiên kẻ địch không làm hỏng cuộc tấn công của chúng tôi và nhiệm vụ, đằng nào cũng được giải quyết, nhưng tổn thất địch gây ra cho chúng tôi là không nhỏ. Ở đó cỉ có một cái chợ Sorochin, một cái chợ như vậy. Ngựa và đoàn xe ngựa đứng trơ trụi trên cánh đồng. Hình ảnh như thế, có thể nói, ghê sợ. chúng tôi thới gặp Volsky, Volsky còn đi với tư lệnh lữ đoàn, trao nhiệm vụ cho anh ta. Chúng tôi bắt đầu thúc giục Volsky - đã đến lúc kết thúc, nhiệm vụ tiếp tục đặt nhiệm vụ sớm hơn. Chúng tôi đi đến từng bộ phận, đưa ra trong cuộc tấn công quân đoàn cơ giới. Tôi cho rằng đây là sự không quán xuyến của Volsky, rằng ông không đào tạo các tư lệnh lữ đoàn. Sau này tôi hiểu rằng, hình như sj việc đã được kết luận theo hướng khác, các lữ đoàn trưởng đã được hướng dẫn và từng vị tư lệnh lữ đoàn đã nhận nhiệm vụ của mình kịp thời.

Sau này phát hiện như thế không những ở Volsky, mà còn ở những tư lệnh khác của bộ đội xe tăng. Họ cố tình chần chừ, chờ đợi, khi bộ binh dọn sạch đường, không phải đưa xe tăng dưới làn đạn và không bị mất mất chúng khi phải đánh đột phá. Họ chờ đến khi chỗ thủng tung ra và làm dễ dàng cho lính xe tăng tiến vào. Đáng tiếc, sự bàn luận này, sau đó tôi đã nghe thường xuyên, vâng và không những đã nghe, còn va chạm với họ ở nhiều lính xe tăng. Tôi sẽ không nói họ tên ra. Bây giờ những người này có vị trí tương đối cao. Họ đã chiến đấu một cách tuyệt đẹp và kết thúc chiến tranh một cách tốt đẹp. Cuối cùng Volsky cũng đến. Chúng tôi đi quanh cánh đồng, quanh căn cứ của ông. Tôi xem, hai máy bay bay trên vùng tiền tuyến của địch và ném bom chúng. Tôi nói:

- Hãy xem, đồng chí Popop, cái gì thế kia? Máy bay của ai thế? Có vẻ như của chúng ta. Vâng, có lẽ chỗ đó bây giờ không còn địch, nó bị đánh bật rằng, như thế phải không? Hay là kẻ địch lại ném bom bộ đội chúng ta?

Tôi không hiểu, Popop cũng vậy. Tất nhiên chúng tôi vui mừng. Tâm trạng tốt hơn cái gì mà chúng tôi nắm được. Chúng tôi đột phá tuyến đầu, bộ binh tiến đến. Nhưng chúng tôi vẫn lo ngại hai máy bay. này Sau đó, chúng tôi nhìn thấy hai máy bay này lượn vòng vào hướng chúng tôi và bay là là mặt đất trên căn cứ này, trên xe tăng và ngựa. Nhưng tất cả rõ như lòng bàn tay. Những máy bay nhận thấy “Willy”[i] của chúng tôi và bay thẳng đến đến nó. Tựa như máy bay của chúng tôi? Popop:

- Chạy đi, tản ra. Nhưng có trời mới biết nó, cái gì xảy ra.

Chúng tôi nhảy ra khỏi “Willy”, ông ta một hướng, còn tôi hướng khác. Máy bay bắn quanh chúng tôi bằng súng máy. Popop sau này nói rằng có một loạt đạn sát ngay ông. Quanh tôi - cũng thế, nhưng không gần trực tiếp, vì rằng tôi không nghe chùm đạn chạm землю. Máy bay bay khỏi. Tôi nói:

- Dù sao chăng nữa dó là máy bay của chúng ta. Vì sao họ bắn chúng tôi? Họ có thể bối rối? Vùng này được đánh dấu trên tất cả các bản đồ, mà phi công chúng ta có thể sử dụng, khu vực này tập trung bộ đội xe tăng và kỵ binh để chuẩn bị đột phá.

Chúng tôi thúc giục quân đoàn tiến lên và quay về ban chỉ huy, chỗ Trufanov. Và ông làm chúng tôi vui sướng bở những tù binh đầu tiên. Lúc đầu tóm được hai chục, sau đó nhiều hơn. Trong số tù binh, tôi nhớ, một người có họ Chaikovsky, dân tộc Nga, như ông nói với tôi, từ Kisinev. Lại một tù binh nữa - một người Rumani rất đáng chú ý. Tôi thẩm vấn anh ta. Vì một lẽ gì đó, anh ta sống sót. Anh ta tự hiểu hiểu, tình thế quân Rumani chừng mực nào là bị lừa dối, rằng chiến tranh không phải vì lợi ích của Rumani, mà vì lợi ích của Đức, rằng Antonesku đem nước mình thành nạn nhân của Đức. Tôi không tuyên truyền anh ta. Anh ta nói là con trai mục sư và tâm trạng của anh ta - không những của cá nhân anh, cũng là tâm trạng của nhiều chỉ huy, mà ông giao thiệp. Tôi nói với anh ta:

- Anh, có thể, đồng ý viết một lá thư cho những viên chỉ huy này, để họ không kháng cự quân đội xô viết, ra hàng làm tù binh và giúp đỡ chính Rumani trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung, chống Hittler?

- Đúng, vui lòng đồng ý. Cho tôi giấy, và tôi sẽ làm điều này.

Chaikovsky không làm tôi chú ý theo một phần tờ truyền đơn. Ông này là dân tộc Nga, cho nên cái họ Chaikovsky không gây cho người Rumani một ấn tượng, nếu ông thậm chí kêu gọi họ ra hàng. Nhưng đây người Rumani chính gốc, một sĩ quan quân đội Rumani, hình như, đại đội chỉ huy, con trai mục sư. Nói chung đối với người Rumani, đặc biệt đối với giáo dân, điều này có thể gây một ấn tượng. Nhưng tôi nói Chaikovsky:

- Anh làm nhục một dòng họ lớn thế?

- Vâng tôi hiểu, tôi biết bản tính dòng họ mà tôi mang. Nhưng ông cũng nên hiểu: không những tôi, mà cả những người Nga khác cũng bị động viên vào lính. Chúng tôi không muốn đánh nhau, chứng cớ là - chúng tôi là tù binh đầu tiên của các ông ngay từ khi đánh nhau. Điều này có nghĩa rằng tôi không muốn đánh nhau và trước hết làm tất cả để bị bắt làm tù binh. Những người khác cũng hành động như thế này.

Sau đó tù binh được đưa đến tình báo, còn chúng tôi đi theo bộ đội. Phải không những tiến lên phía trước, mà còn làm tất cả để tăng tốc tiến lên. Chúng tôi trước hết quan tâm bộ đội cơ động Volsky, và chúng tôi đến đó. Giờ đây kể theo ngày hoặc theo trình tự sự kiện là không thể (tôi nghĩ mọi người hiểu vị trí của tôi). Tôi nhớ chỉ bức tranh tổng quát hoặc những sự kiện riêng rẽ, rõ ràng. Chẳng hạn, những trường hợp thú vị nào đấy. Trong thảm hoạ, cũng như trong chiến tranh cũng xảy ra những hiện tượng hài hước.

Volsky di chuyển xe tăng. Sự chống cự của địch tỏ ra yếu ớt. Có thể nói rằng nói chung không có sự kháng cự có tổ chức. Tại trận địa, nơi lực lượng chủ lực của chúng tôi hoạt động, Volsky tóm nhiều tù binh, giết được nhiều quân địch, rất nhiều. Chúng tôi cảnh báo Volsky, rằng trong bất cứ trường hợp nào không được dùng sức mạnh đối với tù binh. Thứ nhất, đây là không đạo đức. Thứ hai, nguy hiểm, vì rằng kẻ thù dùng điều này để tuyên truyền chống chúng tôi: không thể ra hàng làm tù binh quân đội xô viết, vì họ bắn tù binh! Tuy nhiên, khi chúng tôi tiến lên, tôi đã thấy nhiều nhóm người bị bắn. Quân lính ta đứng bên cạnh. Tôi nói với Volsky:

- Sự việc quá đáng. Tôi quan sát hình ảnh những người bị bắn nằm chồng chất.

- Không, Volsky nói - họ bị giết trong đánh nhau”.

Tôi không loại trừ có thể là, ở đâu đó xảy ra vi phạm chỉ thị của chúng tôi do ảnh hưởng của sự căm thù và sự tức giận. nguyên nhân của điều này rất lớn, cả ở mỗi người lính chúng tôi. Khi rút lui, chúng tôi nhìn thấy cái gì chúng tôi bỏ lại cho kẻ thù. Có những những bằng chứng cho điều này, khi quân thù hoành hành trên những lãnh thổ mà họ chiếm đóng. Tại Ukraina, Liên bang Nga, Belorussia và ở Bắc Kavkaz - khắp mọi chỗ, ở đâu xã hội kẻ thù, thì nó thẳng tay giết tất cả những người “không cần thiết” và không thừa nhận những yếu tố đạo đức nào cả. Hittler nhạo báng những yếu tố này, người chiến thắng được phép làm tất cả. Phải tiêu diệt người Nga, lung lạc tinh thần họ, đe doạ.

Những người lính của chúng tôi hiểu điều này. Và nếu ở đâu đó có sự lạm quyền và vi phạm lệnh, thì, như người ta nói, hãy tha thứ cho những người này. Lúc ấy không xã hội tính chất có tổ chức nào đấy của những người chúng tôi. Đó là do cuộc chiến tranh trói buộc chúng tôi, cuộc chiến tranh làm căng thẳng sự nhạy cảm của con người. Hiểu điều này, tất nhiên, là những người đã chiến đấu và muốn bằng sự hiểu biết đúng đắn đi đến hành động, được áp dụng ở những ngày ấy.

Tôi nhớ, một lần sau khi cuộc tấn công được tiến hành, chúng tôi đi lúc đêm khuia. Thảo nguyên. Không có đường. Việc đi lại là nguy hiểm, vì rằng luôn luôn có thể đụng phải mìn nhỏ, chôn ở chỗ không ngờ. Chúng tôi đi và không tin tưởng rằng đi đúng hướng. Không có một sự định hướng nào cả, không có lấy một bụi cây nhỏ, không có làng mạc. Thảo nguyên hoang vắng. Phải định hướng bằng những ngôi sao. Nhưng bằng những ngôi sao, cũng không thể chiến đấu thậm chí ở thảo nguyên. Chúng tôi nhìn thấy một ngọn lửa nhỏ nào đấy lập loè. Bấy giờ chúng tôi trên chiếc xe “Willy” của mình nhằm hướng ngọn lửa này. Popop nhảy vọt ra khỏi xe. Ông là một người yêu đời và muốn tất cả mọi thứ dễ dàng:

- Đồng chí Khrusev, lại đây, thoáng nhìn, hãy nhìn những con quỷ sống.

Tôi nhảy qua chiếc “Willy”, tiến đến gần. Những người lính của chúng tôi đang ngồi, đang nhóm một đống lửa. Đống lửa lớn ở đó tàn, không còn củi khô. Họ thu lượm tất cả mọi thứ để có thể đốt sưởi ở thảo nguyên. Họ lấy một chút nước ở đâu đó và đun trà, trên đống lửa. Họ bị ám khói - một sự sợ hãi thuần tuý. Trông họ như những người da đen, chỉ nhìn thấy độc răng và mắt. Quả là, những con quỷ, lại còn về ban đêm nữa chứ! Một vài người trẻ còn mỉm cười, nhìn những vị tướng đi đến gần họ. Khi đó, tôi không có kiến thức quân sự, nhưng mặc quân phục. Họ lập tức nhìn thấy rằng một “ông lớn” quân đội đến. Chúng tôi hỏi họ. Một cái gì đó ở họ khi xe bị phá và cháy. “Vâng, chúng tôi chờ, họ giúp chúng tôi.

Họ là lính pháo chống tăng - một hoặc hai khẩu. Chúng tôi nói đùa với họ vài câu. Họ không thể kể cho chúng tôi một điều gì lý giải, bản thân họ cũng không biết những tình hình, họ trả lời chỉ từ đơn vị chiến đấu.

Hôm sau, chúng tôi lại đi khắp mặt trận và gặp một bức tranh thú vị khác. Tôi nhiều lần kể cho Stalin về họ. Chiếc xe gỗ nghiêng ngả. Năm sáu người lính Rumani ngồi trên đó, một người phi ngựa. Họ đi về phía đông. Popop hỏi:

- Các anh đi đâu? Các anh là ai thế?

Một người lính Rumani chìa cho chúng tôi một miếng giấy nhỏ trong tay, Popop cầm lấy và đọc:

- Hãy để cho đi theo chừng này lính Rumani, ngựa và chiếc xe gỗ. Họ đi về phía đông, đến sông Volga, để vào trại tù binh”. Ký tên: thiếu tá một đơn vị nào đó.

Chúng tôi buồn cười. Những người lính Rumani nhìn thất rằng chúng tôi không có vẻ độc ác, và họ cũng được khích lệь. Popop trả lại họ mảnh giấy và nói:

- Hãy di theo hướng, mà các anh đang đi - và vẫy tay.

Và họ lại lên đường.

Chúng tôi đến Plodovit. Đây là một làng. Ở đó khắp mọi chỗ đều có những tên gọi của sự tồn tại cuộc sống của một điểm cư dân. Hình như trong quá khứ có sự tiến dần của vùng đất nửa hoang dã của thảo nguyên, những người đến đây, cho những chỗ mới này một những cái tên gọi đẹp. Một thiếu tá tiến đến và hỏi tôi:

- Tôi muốn hỏi, tôi phải làm gì với tù binh?

- Thế chỗ anh có bao nhiêu tù binh?

- Ba trăm.

- Họ ở đâu?

- Ở gần đây thôi!

Chúng tôi và Popop đến đó. Chúng tôi thấy một đám đông tù binh đứng ở đấy. Chúng tôi nói chuyện với họ qua phiên dịch. Cũng trong lúc ấy, lại một thiếu tá phi ngựa đến:

- Hãy quyết định đi? Tôi phải làm gì và giải tù binh đi đâu?

- Chỗ anh có bao nhiêu?

- Khoảng ba nghìn, có lẽ thế.

- Thế những tù binh này đâu?

- Kia kìa, ở đằng sau nhà thờ.

Chúng tôi đến. Ở đó một hàng dài người xếp hàng ngang, theo một trật tự nào đó. Thiếu tá báo cáo rằng tại đây có trung đoàn pháo binh cỡ lớn của Rumani. Viên chỉ huy trung đoàn bị bắt làm tù binh. Tôi nghĩ: có trời mới biết nó, toàn bộ trung đoàn pháo nằm sau lưng chúng tôi, nó có thể gây cho chúng tôi những thiệt hại. Tôi nói:

- Hãy ra lệnh cho tất cả các sĩ quan đứng lên phía trước. Phải tách các sĩ quan ra khỏi lính và đưa riêng họ vào sâu trong nước, đến trại tiếp nhận. Trên cánh đồng, ngổn ngang vũ khí, từ súng trường đến đại bác. Họ có thể gây cho chúng tôi thiệt hại, không có trong tay những cỗ pháo sẵn sàng nhả đạn.

Phía sau chúng tôi không có gì cả. chúng tôi đi đến trước mặt các sĩ quan của họ. Ông thiếu tá mời viên chỉ huy trung đoàn đi đến chỗ tôi.

Viên chỉ huy, đứng tuổi bình tĩnh trình bày:

- Tôi là một chỉ huy trung đoàn. Thậm chí tôi không ra lệnh tháo vỏ bọc đầu nòng pháo, không nổ súng và quyết định ra hàng làm tù binh cả với trung đoàn thành phần đày đủ cả vũ khí và lính. Vậy là tôi cũng đã đầu hàng các ông tất cả: cả sĩ quan, cả lính, cả pháo.

Tôi nói ông ta:

- Ngài trung đoàn trưởng, Liệu ngài có đồng ý ra lời kêu gọi lính và sĩ quan Rumani để họ ngừng chống cự và ra hàng làm tù binh? Nếu ông làm được như thế thì ông hiểu đúng rằng chiến tranh chống chúng tôi trói buộc các ông với Hittler. Ông không muốn chiến tranh tiếp diễn và đối với ông, thì nó đã kết thúc. Hãy giúp đỡ những ai còn ở bên kia chiến tuyến, hãy để họ noi gương ông.

Ông trả lời:

- Rất hay! Cho tôi cơ hội, tôi sẽ viết một bức thư.

Sau khi hỏi kỹ ông ta, tôi nói với ông ta về việc một sĩ quan, mà chúng tôi bàn bạc với anh ta trước đây và anh cũng viết một tờ truyền đơn tương tự. Ông ta, té ra, lại biết viên sĩ quan này. Trong tờ truyền đơn của mình, người sĩ quan này (như tôi biết sau này) gửi đúng tới viên trung đoàn trưởng. Quả là, khi tôi đọc truyền đơn của viên sĩ quan này, con trai một cha đạo, mà chúng tôi bàn bạc với anh ta trước đây, ông thông báo đích danh ông trung đoàn trưởng này:

- Đừng băn khoăn là anh đang chống lời khuyên của mình! Tôi biết tâm trạng của anh. Phải kết thúc chiến tranh!” Nhưng khi tôi quay về ban tham mưu, người ta đưa cho tôi truyền đơn để tôi ra lệnh in nó. Nhưng trong truyền đơn không có sự đòi hỏi: đơn vị, mà truyền đơn nhắm tới, đã đầu hàng làm tù binh. Chúng tôi chỉ ra rằng các sĩ quan Rumani riêng chở riêng, lính chở riêng.

Chiến dịch tiếp tục thành công. Bộ đội chúng tôi tiến lên phía trước, và chúng tôi nếm những quả ngọt của những chiến thắng lớn đầu tiên. Khó mà tả thành lời, sự vui mừng khi đó như thế nào và nỗi hân hoan ra sao. Lần đầu tiên sau chiến đấu trên hướng của mình, chúng tôi thành công đột phá phòng tuyến kẻ thù và thúc đẩy cuộc tấn công, làm thất bại tất cả những gì đứng trước chúng tôi, và hầu như không gặp kháng cự. Sự thật chúng tôi hiểu rằng trước mặt chúng tôi không phải là quân Đức, mà là quân Rumani. Họ không phải là những người kiên tâm, biết cuộc chiến tranh này không vì lợi ích cho Rumani. Nhưng dù sao chăng nữa, đây là kẻ thù. Như người ta nói, người Rumani và người Rumani. Cũng hoàn toàn khác. Chúng tôi biết họ tấn công như thế nào, nhạo báng những người hoạt động hoà bình ra sao, giết nhân dân chúng tôi. Họ đesn cùng với Quân đoàn Hittler và cũng gây ra những việc làm tàn bạo với các chiến sĩ xô viết. Vì thế phải đúng hiểu rằng sự hân hoan của chúng tôi, sự vui mừng của người lính chúng tôi và các sĩ quan, rạng rỡ thực sự.

Tôi không nhớ, ngày tấn công, ngày thứ ba hoặc thứ bốn, chúng tôi tấn công và quyết định nhiệm vụ đặt trước chúng tôi. Bộ đội xe tăng đến Sovietsky, đến sông Đông, còn bộ đội Vatutin tiến dọc theo sông Đông đến Kalach. Ở đó chúng tôi cần phải tổ chức một cuộc gặp gỡ, nên chúng tôi và Popop đi đến đó. Tôi nói ở đó là chưa chính xác. Các tướng khác, những người tham gia chiến dịch này, trong các hồi ký của mình chính xác hơn, vì rằng họ, khi viết, sử dụng tư liệu của Bộ tổng tham mưu, các tài liệu chính thức, qua đó có thể phục hồi tất cả đúng thời gian, sự kiện tiến triển cụ thể. Tôi không có khả năng như thế. Như vậy, chúng tôi và Popop tới chỗ tư lệnh quân đoàn xe tăng mặt trận Tây Nam. Chỉ huy nó là viên tướng người quen của tôi, Kravchenko. Sau này, tôi không lần nào gặp ông ta cả trong thời gian, và sau chiến tranh. Bây giờ ông đã khuất.

Kravchenko là một nhưng đàn ông rất khoẻ mạnh. Sức khoẻ của ông không hao mòn, thế mà ông chết. Khi đó ông là người hoạt động tốt.

Khi chúng tôi rẽ đến chỗ ông, ông nói rằng ông không được khoẻ, bị ốm. Ông bị cúm, hay một chứng bệnh gì đó, nhưng ông gạt bệnh tật sang bên. Chúng tôi chúc mừng nhau và cùng nhau hân hoan rằng mặt trận của chúng tôi khép chặt. Chà cuộc gặp đầu tiên! Kravchenko đề nghị:

- Vì sự vui mừng cuộc gặp mặt của chúng ta, hãy uống một chai sâm-panh. Tôi có một chai sâm-panh Pháp, chiến lợi phẩm đấy.

- Ừ, uống thôi.

Chúng tôi mở sâm-panh, uống bằng cốc vại, ăn mừng binh đoàn Stalingrad và mặt trận Tây Nam. Kravchenko đề nghị tôi:

- Đồng chí Khrusev, xin hãy nhận từ tôi một món quà nhỏ kỷ niệm cuộc gặp mặt hôm nay, một dao con của Đức. Thật ra, nó có cả phù hiệu cơ, nhưng phù hiệu bây giờ bị đập vỡ mất rồi. Món quà kỷ niệm này sẽ ghi nhớ cuộc gặp gỡ của chúng tôi.

Tôi nói:

- Được, tôi nhận. Tôi có thằng con trai nhỏ, tôi sẽ cho nó. Đây sẽ là bằng chứng rằng bộ đội chúng ta đánh nhau với bọn Đức, và là món quà tốt.

Chúng tôi ở lại chỗ Kravchenko ngắn ngủi, thông báo cho nhau về tình hình công việc. Tình thế là rất tốt. Chúng tôi không cảm thấy mối đe doạ nào đấy của quân thù, chúng tôi đã thắng kẻ thù của mình và không biết rằng kẻ thù vẫn còn kéo đến và chúng tôi sẽ phải đối mặt với điều này. Nhưng đó là việc sau này. Trong trường hợp đã kể trên, chúng tôi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Kravchenko nói rằng ông, như người ta nói, hành quân dọc theo hữu ngạn sông sông Đông và không gặp phải sự kháng cự lớn. Phía sau kẻ địch tương đối lỏng lẻo và quân lính không đảm bảo Chúng tôi mừng về việc đó, khi dự liệu chiến dịch, chúng tôi gửi thư cho Stalin giải trình kế hoạch một cách cẩn thận, dự kiến rằng có khả năng tiến hành chiến dịch như thế, nhưng chúng tôi không biết dự trữ của chúng tôi, nếu Tổng hành dinh phân bố nó, không có dự trữ của cẻ địch. chúng tôi được giải thích rằng lời khuyên của chúng tôi không đi ngược với bước đi thực tế của những sự kiện, và những lời đề nghị của các tư lệnh khác. Vấn đề chính không phải là ở chỗ ai nói đầu tiên “A”, mà là ở chỗ thực hiện nhiệm vụ đặt trước chúng ta. Kẻ thù đang bị thất bại, quân Đức đang bị bao vây ở Stalingrad. Giờ đây phải kìm chúng lại ở đó đánh tan nó.

Sau đó chúng tôi gặp những khó khăn. Về những khó khăn này, tôi nói với Zukov, khi ông đến chỗ tôi và báo cáo dự án của Tổng hành dinh về kế hoạch chiến dịch. Tôi nói với ông khi đó nói rằng chúng tôi có thể giải quyết nhiệm vụ của mình, vì cảm thấy rằng, kẻ địch ở thế yếu. Nhưng nếu các anh không trợ sức chúng tôi, thì chúng tôi bằng sức sẵn có của mình không thể kìm lại được quân Đức đang bị vây hãm: kẻ thù sẽ đè bẹp chúng tôi và chạy thoát khỏi Stalingrad. Tôi nói, Zukov trả lời tôi: hãy để kẻ thù thoát khỏi Stalingrad đi đến đâu đó; đây sẽ là một thắng lợi lớn - đuổi cổ bỏ bọn Đức khỏi Volga. Tôi không đồng ý với Zukov, nhưng muốn hơn. Vả lại, tôi nghĩ rằng ở đây chúng tôi không thể có sự bất đồng: với Zukov đó là nguyện vọng. Nhưng bây giờ đặt nhiệm vụ kìm chân và đánh tan quân thù. Và trong chiều đó chúng tôi và Popop quyết định quay về ban tham mưu tập đoàn quân №51, mà về ban tham mưu Tolbukhin. Ông ở gần Sovỉetsky. Với tập đoàn quân №51 thì nhiệm vụ đã được giải quyết, quan địch thất bại, bắt được nhiều tù binh và phía trước không có mấy nguy hiểm trực tiếp. Nhưng ở Stalingrad còn chủ lực kẻ địch. Giờ đây hướng chính lại là chỗ Tolbukhinе, không phải tập đoàn quân №51, mà là №57, một tập đoàn quân yếu nhất trong tất cả các tập đoàn quân tại mặt trận Stalingrad, ít quân nhất. Vì thế chúng tôi và quyết định đến Tolbukhin và ở đó có được thông tin sâu sát hơn. Chúng tôi cũng biết rằng Tolbukhin chuyển ban chỉ huy vào hẻm cạnh Nariman, gần sông Đông. Chúng tôi đến đó.

Đêm mùa xuân ở phương Nam. Trời tối như hũ nút, chẳng thể định hướng được. Chúng tôi cố tìm được cái hẻm. Tôi nghi ngờ nói với Popop:

- Markian Mikhailovich, theo tôi, chúng ta không tìm thấy hẻm, mà lại không có đường, chúng ta không biết đang ở đâu, không biết định hướng, rất khó đến đó được.

Nhưng ông tỉnh táo trả lời:

- Chà, đồng chí Khrusev, đối với chủ yếu phải có bản đồ, la bàn và máy đo tốc độ để tính toán con đường mà xe đã đi qua. Cứ tìm đi!

Chúng tôi lại tìm kiếm. Về sau, trong này trở thành chuyện tiếu lâm. Tôi nhiều lần nhớ lại nó, khi gặp Popop. Ông cũng cười… Tại một điểm dân cư, chúng tôi gặp hình ảnh thế này: hai xác lính Đức nằm trần truồng. Về đêm rất dễ nhìn thấy họ. chúng tôi đi, lại xác con ngựa nâu. Đây không phải là người định hướng. Nhưng kìa, một bảng chỉ dẫn bằng tiếng Đức. Chúng tôi đọc. Popop có hai trợ lý, và một trong hai người này biết tiếng Đức. Nhưng thực là gì? Chúng tôi chẳng đến đây cả, lại quay lại chỗ những cái xác. Thực là rơi vào chỗ lẩn quẩn! Không thấy chỗ thoát đâu cả, chúng tôi lại gặp hai xác lính trần truồng và con ngựa xám. Bọn tà quỷ dẫn chúng tôi quanh chỗ này. Cuối cùng chúng tôi nghe thấy có tiếng nói chuyện. Một ai đấy đi đến. Chúng tôi cũng cất giọng.

Một ô tô tiến lại. Một người nhảy ra khỏi xe và nói:

- Tôi trung tá, chỉ huy đơn vị xe tăng.

Ông biết tôi và hỏi:

- Các ông đi đâu đấy?

- Chúng tôi đi vào hẻm Nariman.

- Đồng chí Khrusev, đồng chí không tìm được hẻm Nariman đâu. Thảo nguyên mà. Vâng tại sao các ông lại đi? Mặt trận ở trước mặt, nhìn thấy rõ pháo sáng Đức vụt lên (quân Đức chiếu sáng rất mạnh mặt trận của mình). Lúc ấy có thể vướng phải mìn. Tôi đề nghị các ông, chúng ta đi cùng với nhau. Tôi đến chỗ đóng quân tập đoàn quân №57, tôi biết đường và dẫn các ông. Tôi đi đến trạm quân y, bị thương ở tay, ban đầu đau, còn bây giờ cảm thấy vết thương bắt đầu ổn rồi. Tôi muốn rằng ở đó người ta sẽ băng bó đúng chuyên môn và tất cả những gì cần thiết với vết thương.

Tôi đồng ý, nhưng Popop nói:

- Không, chúng tôi dù sao chăng nữa tự đi được.

Chúng tôi từ giã, lại đi tiếp. Lại nghe thấy tiếng nói rì rầm. Một ô tô đi vòng đến, chúng tôi dừng lại, ra khỏi xe.

Té ra đây là người đại diện Tổng hành dinh, một vị tướng, phụ trách liên lạc. Ông nói:

- Tôi đến ban tham mưu Tolbukhin, sông Volga. Tôi cũng cần vào thung lũng Nariman, nhưng tôi bây giờ không đi đến đó, vì không tìm thấy nó, và các ông cũng không tìm thấy. Hãy đi cùng với nhau?

Chúng tôi lại từ chối. Hy vọng rằng chúng tôi tìm thấy cái hẻm này. Chúng tôi tìm kiếm và luôn vòng quanh những cái xác này. Hình như chúng tôi đã đi xa theo hướng nào đó, còn sau đó bỗng nhiên té ngửa rằng chúng tôi đã “lượn vòng tròn” một chỗ nào đấy và mới đây lại rơi vào chỗ cũ.

Tôi run lên vì lạnh trong chiếc áo dạ và Popop cũng thế. Sự tức giận đã bùng nổ. chúng tôi tiến gần đến một ngã ba đường, nhìn thấy một số bảng chỉ đường bằng tiếng Đức. Sĩ quan phụ tá dịch cho biết đường đi đâu, đi hướng nào. Popop lạnh cóng đến nỗi không thể chờ được nữa, nói với sĩ quan trợ lý:

- Kéo cái biển ấy lại đây!

Sĩ quan trợ lý giật lấy và mang lại. Nhưng thực chất là gì đây? Kim này dẫn đến đâu, bây giờ không hiểu, hướng bị mất hút. Rồi rất lâu chúng tôi cũng đến được ban tham mưu Tolbukhin ở Volga. Chúng tôi biết ở đó có thể sử dụng nhà tắm. Và bạnnghĩ gì về điều này? Ngay lập tức chúng tôi đi đến.

Như vậy, sự thống nhất các mặt trận của chúng ta, bao vây quân Đức ở Stalingrad đã cho kẻ thù đứng trước sự thất bại. Đây là sự vui mừng. Sự hân hoan này, chúng tôi chịu khổ sở trong suốt chiến tranh, bằng sự rút lui khốc hại, bằng sự kinh ngạc, và những đau lòng khác. Mặt trận sông Đông do Rokossovsky chỉ huy, cũng hoàn thành nhiệm vụ của mình. Tôi không nói gì về điều này vì rằng tôi không nhớ cụ thể, nhiệm vụ nào đặt trước ông. Như thế, mặt trận sông Đông từ phía bắc bây giờ đảm bảo vị trí chống quân Đức. Mặt trận Stalingrad phải hướng sức lực của mình vào hướng nam để củng cố phòng thủ trong trường hợp địch đột phá.

Chúng tôi của biết lần này quân Đức bị vây không cố gắng thoát ra khỏi vòng, nghĩa là, có chỉ thị từ Berlin không bỏ Stalingrad, mà chờ sự giúp đỡ và sẽ khôi phục tình thế trước đây. Theo hoạt động của địch, chúng tôi hiểu giải quyết như thế nào đối với chúng. Tiếp theo, cần chờ cuộc phản công của nó từ phía nam và phía tây. Nhưng từ phía tây thì có thể đi đến đây qua sông Đông. Nhiệm vụ kìm chân lực lượng này đặt lên sườn tây mặt trận Tây Nam dưới sự chỉ huy của Vatutin. Nhất thiết phải được bảo vệ ở từ hướng nam để quân tiếp viện Paulus, không thể đột phá. Mặt trận Rokossovsky (thuộc sông Đông) với sự tham gia của các đơn vị chúng tôi đã giữ vòng vây.

Trên mặt trận hướng Kotenikovsky, tham gia hoạt động là tập đoàn quân №51, quân đoàn kỵ binh Sapkin, quân đoàn cơ giới Volsky và các binh đoàn khác. Tôi đôi lần đến những nhóm này, vì rằng ở đó tình hình nặng nề. Theo tin tình báo, chúng tôi biết thống chế Đức Manstein chỉ huy quân tiến đến giải thoát đám quân bị chúng tôi đang bao vây. Ông ta bắt đầu tiến gần chúng tôi. Quân của Manstein ở cách khoảng chừng 50 kilomet từ tiền tuyến của quân Paulus. Ban tham mưu tập đoàn quân Tolbukhin, nơi tôi đang ở đó (ở ban tham mưu mặt trận, tôi ít ở đó), được bố trí dưới Verkh Sarisynsky, vừa đúng ở giữa quân đoàn Manstein, đang tiếp cậnsông Myskov, và quân đoàn Paulus. Trong những ngày đầu tiên sau khi vây Paulus, Tolbukhin còn ít quân đến nỗi có những đoạn hoàn toàn trống đến sáu hoặc bẩy kilomet. Ở đó nói chung chẳng có một cái gì cả. Nhưng do chỉ thị, do Hittler đưa ra và bắt đám quân bị vây ngừng hoạt động, đợi tiếp viện, kẻ địch bỏ lỡ khả năng đột phá. Nếu Paulus muốn làm điều này, tấn côngvề phía nam thò ông ta hoàn toàn có khả năng đột pháс. Chúng tôi không thể kìm chân Paulus. Tuy nhiên, như người ta nói, không có sự may mắn, sự ngu ngốc Hittler đã giúp. Hittler bắt quân Paulus ngừng hoạt động, mà quân của Paulus khi đó mạnh về vũ khí, và đông người. Thế mà đội quân Paulus ngồi chờ, còn trong thời gian này chúng tôi áp dụng các biện pháp để củng cố vòng vây.

Sau khi thực hiện vây hãm, quân đội Liên Xô quyết định cố gắng đột phá tuyến phòng thủ của đám quân Đức đang bị bao vây và tiêu diệt chúng. Lực lượng của chúng tôi không đủ, mà ý đồ lại lớn. Vì thế chúng tôi cố gắng thực hiện điều này bằng tập đoàn quân­ Tolbukhin, bằng cách tăng viện cho nó. Trong vùng sông Chevlena, địa hình tương đối bằng phẳng, chúng tôi cũng muốn đột phá phòng thủ Paulus. Chúng tôi và Popop đến chỉ huy sở Tolbukhin. Chỉ huy sở đặt ở vị trí rất thuận lợi: từ đây có thể nhìn thất tất cả như lòng bàn tay. Đất cao, nhìn xuống dưới thung lũng và lại nhìn lên trên. Chúng tôi nhìn địch phía trước - như lòng bàn tayи, và kẻ địch cũng nhìn chúng tôi như lòng bàn tay. thậm chí tôi thấy quân Đức đi quanh cánh đồng ra sao và bỗng nhiên biến mất, hình như trong một cái hầm nào đấy. Tại hướng này chúng tôi đặt tăng. Tôi không nhớ ai chỉ huy những xe tăng này. Tanachisin, chỉ huy quân đoàn cơ giới №13, trước đó được bổ xung cho quân đoàn cơ giới Volsky ở miền nam, thuộc Kotenikovsky.

Chúng tôi sử dụng tất cả khả năng của mình, nhưng không thành công. Và cuối ngày chúng tôi nhận thấy không thể ngày hôm sau tiếp tục đánh nhau mạnh như thế này và cũng chưa thể bẻ gãy sự chống cự của địch. Quân địch có cả xe tăng, lẫn pháo lớn. Máy bay địch, thật ra, không hoạt động. Phía chúng tôi chỉ có một ít máy bay tiêm kích hoạt động. Những máy bay này không thể yểm trợ lực lượng mặt đất. Bóng đêm xuống, chúng tôi ngừng tấn công, hơn nữa điều này sẽ mang tổn thất, đặc biệt ở xe tăng. Chúng tôi còn rất ít xe tăng. Nếu so sánh số lượng xe tăng mất đi với số chúng tôi đang có, thì sự mất mát này cảm nhận được. Và tất cả chúng tôi không mất hy vọng đột phá phòng thủ quân thù và xông vào chỗ đóng quân của quân Paulus. Chúng tôi cho rằng cứ mỗi ngày trôi đi lại làm hao mòn sức lực địch, làm mệt mỏi thể xác chúng, thực phẩm trong vòng vây không đủ, mặc dù chúng tôi không có những bằng chứng cụ thể. Chúng tôi đơn giản tính như thế này, và, bây giờ rõ ràng thấy được từ những tài liệu được công bố về Paulus, cũng như trong những hoạt động. chúng tôi phải thực hiện cuộc đột phá thứ hai. Và cũng không thành công.

Tôi nhớ những tình tiết như thế. Chúng tôi ở sở chỉ huy - ở một chỗ được đào sâu, che bằng một ụ đất được nguỵ trang. Ở đây có tư lệnh tập đoàn quân Tolbukhin và chúng tôi và Popop - đại diện mặt trận. Bỗng nhiên chúng tôi nhìn thấy một máy bay hạ thấp xà thấp hướng chúng tôi. Chúng tôi cũng đề phòng trước nó sẽ tấn công thẳng vào chỉ huy sở và phá huỷ tất cả những gì có ở đó. Máy bay của ai? Khó biết được. Cuối cùng chiếc máy bay chạm đất (bây giờ thậm chí có lần không tin được) cách sở chỉ huy khoảng 10 mét, và có thể ít hơn. Điều này giải thích rằng không phải phi công giỏi, mà đơn giản chỉ là một trường hợp. Cũng có những trường hợp không tưởng tượng được như thế trong chiến tranh. Tôi vọt ra khỏi công sự. Máy bay té ra là của Liên Xô. Phi công ngồi trong buồng lái, nhưng ở trạng thái sốc. Người ta lôi anh ta ra và anh ta tỉnh lại. Phi công này được đưa vào bệnh biện, còn máy bay nằm lại đó.

Tôi quay về căn hầm. Nhưng khi sau một lúc, máy bay đã bị trấn lột. Lính “của chúng tôi” làm điều này. Họ lấy tất cả những gì có giá trị đối với lính: đồng, kính và v.v… Sau đó họ làm tất cả những đồ giả và để đánh lừa. Lính tráng đã sử dụng tất cả để làm điều này. Khi đó tôi ngạc nhiên và tức giận. Máy bay vẫn có thể phục hồi được! Tôi rất lưu tâm tới quan hệ như thế với tài sản quân đội, nhưng không có ai chú ý đến điều này.

Từ khi tấn công lúc hoàng hôn, chúng tôi quan sát máy bay vận tải Đức chở hàng cho quân Paulus. Chúng bay lượn như là diễu binh. Pháo phòng không của chúng tôi nhả đạn, nhưng rất kém hiệu quả. Ngày đầu tiên ở phần đát chúng tôi chỉ bắn rơi được hai máy bay địch, ngày sau cũng bắn rơi rất ít.

Chúng tôi thẩm vấn tù binh, tôi chú ý, chở gì đến, hàng gì? Thực phẩm cho lính? Vũ khí? Nhiên liệu? đạn được? Như được biết, chúng chở đến không được nhiều. Sau đó, khi bộ đội chúng tôi áp sát vòng vây, máy bay không thể hạ cánh, mà phải thả dù. Nhưng cũng không đáng kể. Như thế, những cố gắng đầu tiên của chúng tôi để đánh quân Đức bị vây không thành công.

Tướng Sumilov, người chỉ huy tập đoàn quân №64, ở hướng của mình có nhiệm vụ tấn công từ phía nam. Ở đó tất cả đã bị phá huỷ. Lính của Sumilov chiếm cứ điểm như thế. Chúng tôi chúc mừng ông. Sau đó chúng tôi nghĩ rằng phải trao đổi những suy nghĩ với Eremenko và gọi Sumilov:

- Ông, dù sao chăng nữa, kiểm tra lại đi, liệu báo cáo này có sai không?

- Không! - ông cam đoan.

Sumilov hẳn phải biết điều đó. Đây là một con người rất trung thực và tận tâm. Và hôm sau, từ sáng sớm, ông kiểm tra lại, té ra là ông bị nhầm. Ông giải thích cho chúng tôi rằng sau khi ông gửi báo cáo, kẻ địch đã phản công và chiếm lại vị trí của mình. Sau này, tôi không một lần đùa với ông theo lý do này: dường như, để biện bạch điều này, người ta phải lừa bịp bằng cách tưởng tượng là kẻ địch phản công, đây là lời giải thích điển hình, khi họ không làm đúng việc chiếm một cứ điểm nào đấy, rồi sau đó nói rằng kẻ thù đã phản công và cướp lại nó từ tay chúng ta. Nhưng không có một sự giả mạo nào cả. Đơn thuần những người này nghĩ rằng sớm muộn thì cũng chiếm được cứ điểm, nhưng lại không đạt được.

Suốt thời gian ấy, địch tăng sức ép từ Kotelnikovsky vào hướng Stalingrad. Bộ đội chúng tôi kiên trì chiến đấu và chúng tôi không bị thiệt hại lớn. Tôi đôi lần đến đó. Chúng tôi gửi đến khu vực này Zakharov, người thống nhất sức mạnh của mọi người. Hướng này, chúng tôi trở nên lo ngại, vì rằng chúng tôi đã thụt lùi và thụt lùi về Stalingrad. Có một mối đe doạ thật sự, là Manstein có thể chọc thủng. Đồng thời chúng tôi đã nhận thông báo rằng tập đoàn quân cận vệ №2 dưới sự chỉ huy Malinovsky được chuyển cho chúng tôi. Tôi biết Malinovsky và đánh giá cao về ông. Chúng tôi và Eremenko rất vui lòng về tin này và chờ đợi tập đoàn quân cận vệ №2 tới. Chẳng bao lâu tập đoàn quân này đến chỗ đóng quân của chúng tôi, và chúng tôi đưa nó đánh nhay với quân Manstein.

Đây là một một lực lượng giải cứu - gồm những thanh niên sung sức, mạnh mẽ, được huấn luyện và trang bị tốt. Tập đoàn quân cận vệ №2 có 3 quân đoàn bộ binh, mỗi quân đoàn - 3 sư đoàn và một trung đoàn xe tăng, với 22 hoặc 24 xe tăng mỗi trung đoàn, trong thời gian ấy- một lực lượng mạnh. Tóm lại, một tập đoàn quân đầy đủ. Phó tư lệnh tập đoàn quân là tướng Kreyzer, anh hùng Liên Xô. Là một tướng trẻ, ông đem cho tôi ấn tượng rất tốt. Trưởng ban tham mưu tập đoàn quân là Biryuzov. Một tướng cũng trẻ và tốt. Tóm lại, ban chỉ huy, lính là chọn lựa.

Tập đoàn quân này đến vào tháng 12 chạm trán với quân địch ở sông Myskov. Đánh nhau nảy lửa, và quân địch bị nằm lại. Chúng tôi lại xiết chặt nó. Khi đó Vasilevsky bay đến gặp chúng tôi. Chúng tôi và ông lên tiền tuyến thấy những trận giao chiến ác liệt như thế nào. Chúng tôi liên tục bị thiệt hại lớn. Đôi lúc chúng tôi và Vasilevsky “thử” đến chỗ xác định và trong tầm nhìn thấy, xem bao nhiêu người chết. Than ôi, có rất nhiều xác lính bên chúng tôi, chủ yếy là thanh niên. Tôi nhặt ở xác một người chết được một cái thẻ đoàn viên thanh niên cộng sản, chiếc thẻ đã bị đạn xuyên qua: chùm đạn trúng ngực anh ấy.

Rồi nhanh chóng, chúng tôi đã được tiếp viện một quân đoàn xe tăng bổ xung do Rotmistrov chỉ huy. Đây là một quân đoàn tốt, gồm những người “mũi nhọn”, biết sử dụng xe tăng tuyệt vời. Điều này cũng tăng thêm sức mạnh đáng kể cho mặt trận.

Tôi khi đó ở chỗ Tolbukhin, tại Verkh Sarisynsky. Malinovsky đặt ban tham mưu của mình cũng ở Verkh Sarisynsky. Như thế, ở đây có hai ban tham mưu tập đoàn quân: Tolbukhin, giữ vòng vây quân Paulus từ phía nam, và Malinovsky, hoạt động hướng tây nam, kiềm chế quân Manstein. Đôi lần tôi đến chỗ Sapkin. Có lần khi tới chỗ ông, nhìn thấy cảnh tượng nặng nề: cạnh một điển dân cư, nơi Sapkin và ban tham mưu đóng, ngổn ngang nhiều xác kỵ binh và ngựa. Tôi đi qua một chiếc cầu nhỏ, bên cạnh cầu là xác một sĩ quan, và bọn trộm cướp (ở nơi chiến sự) cũng đã lột bộ ủng từ xác này. Tôi kể cho Sapkin điều này, ông xác nhận:

- Đúng, đây là một chỉ huy đại đội kỵ binh.

- Thế nào? Các anh không lấy các thứ từ người chết chứ? Trấn lột cả người chết! Nhìn người chết, dù sao chăng nữa cũng thương tiếc, và chẳng đễ chịu.

Chiến tranh là thế đấy… Sapkin trong những ngày đó bằng mọi cách kiềm chế áp lực kẻ địch. Nhưng khi tập đoàn quân Malinovsky tới, chúng tôi, đánh bật quân thù, và tấn công.

Trước khi lực lượng Malinovsky đến, đã xảy ra những những tình tiết thế này. Đến chỗ chúng tôi là Đại diện Tổng hành dinh về sử dụng binh О. I. Gorodovikov. Gửi ông này đi đâu? Ông ta khi đó là tổng thanh tra kỵ binh, và chúng tôi, tất nhiên, gửi ông đến quân đoàn kỵ binh, quân đoàn duy nhất ở mặt trận chúng tôi. Oka Ivanovich đến đó. Tôi ở chỗ Tolbukhin, sau đó ở chỗ Popop. Trước đó đã thành lập tập đoàn quân mới do Popop chỉ huy. Tập đoàn quân xung kích này được chĩa vào hữu ngạn sông Đông ở Tormosin. Bỗng nhiên Oka Ivanovich tới gặp Popop, ông ta rất xúc động, phẫn nộ. Ông nói tiếng Nga vẫn chưa thuần. Ông kể:

- Kiếm đâu? Kiếm này chỉ dùng thái thịt nướng, đỡ phải cắn! Kiếm dở quá, không phải kiếm.

Quả là, vũ khí, bao gồm kiếm trong kỵ binh không phải là hạng tốt. Oka Ivanovich kể cho tôi: “Tôi ngồi trong công sự, tôi thấy kẻ địch ở đâu đó. Tôi nói với Popop, rằng anh muốn tôi bị bắt làm tù binh hay sao?

Manstein tấn công, và, hình như điều này gây cho chàng kỵ ninh ra vẻ can đảm ấy một ấn tượng mạnh. Sau đó, ông ta hỏi tôi:

- Đồng chí Khrusev, khi nào anh về ban tham mưu mặt trận? Ban tham mưu mặt trận ở đâu?

Tôi nói với ông ta rằng ban tham mưu mặt trận nằm ở nơi mà ông ta từng qua, trên đường từ Moskva đến đâu, ở làng Rai - thành phố nhỏ nằm ngay bờ sông Volga. Tôi không biết, vì sao ông lại như thế. Thực chất, đó chỉ là một cái làng lớn, tất cả chỉ là những làng dày đặc, san sát nhau.

Ngài trung tướng tiếp tục:

- Anh chuẩn bị đi tới đó?

- Tôi sẵn sàng.

- Chúng ta hãy đi cùng nhau.

- Thôi được. Chỉ vì ông muốn đi?

- Tôi muốn đi ngay bây giờ.

- Tôi không khuyên đi bây giờ, ban đêm rất khó đi, không thể bật đèn pha, máy bay Đức nhằm đèn pha, còn đi mò - có thể bị chết nhanh hơn bởi rơi vào chùm đạn súng máy của địch. Tốt nhất, sáng mai lúc hửng sáng chúng ta đi, khi chưa có ánh sáng mặt trời và máy bay vẫn còn chưa có, còn ban đêm cũng nguy hiểm, vì rằng máy bay ném bom ban đêm bay rất thấp, có thể hạ chúng dễ dàng bằng súng máy, thậm chí bằng súng trường. Vì thế chúng tôi chọn thời gian như vậy.

- Được, tôi đồng ý.

Nhưng sáng hôm sau, tôi gọi, người trực nhật trả lời tôi rằng Oka Ivanovich đã đi.

- Ông ấy đi lúc nào?

- Từ buổi chiều.

Ông ta, hình như xúc động và chấn động đến nỗi không đợi đến sáng. Từ đó đến nay tôi không gặp lại Oka Ivanovich nữa. Khi ông ta chỉ huy tập đoàn quân kỵ binh №2, ông là anh hùng nội chiến. Nhưng trong cuộc chiến tranh này, xuất hiện cả những vũ khí khác, và những điều kiện khác. Ông ta, tất nhiên, cảm thấy, không thể có một sự giúp đỡ cụ thể nào đó, chuyến đi của ông cũng chẳng đem lại chomặt trận một cái gì cả, ông chỉ có thể biểu thị ý định tốt, thẳng thắn và trung thành với tổ quốc Xô viết. Một chiến sĩ tốt, nhưng đã hết hơi. Và theo kiến thức binh nghiệp, và theo thể trạng, ông ta cũng không thể giữ một vai trò cần thiết.

Tôi cũng nhấn mạnh rằng phần lớn thời gian tôi lãnh đạo ở Verkh Sarisynsky, ở ban tham mưu mặt trận: tôi có ở đó một căn hộ thường xuyên. Và thế là tôi đi đến đó, để nhận thông tin thường kỳ về tình hình, và chúng tôi nghỉ ngơi. Bỗng nhiên Malinovsky hùng hục chạy đến tôi, không kịp cởi áo, vẻ rất xúc động. Tôi liếc nhìn, mắt ông có dấu vết nước mắt. “Gì thế? Chuyện gì vậy, Rodion Yakovlevich?

- Có chuyện bất hạnh, Larin bị bắn.

Larin là uỷ viên hội đồng quân sự tập đoàn quân cận vệ №2, một quân nhân. Họ đã là bạn thân với Malinovsky, cùng phục vụ với nhau từ trước chiến tranh. Khi Malinovsky chỉ huy quân đoàn, Larin chính uỷ. Malinovsky luôn luôn nài nỉ để Larin được ở cạnh ông hoặc là trưởng ban tuyên huấn, hoặc là chính uỷ. Larin là một cán bộ chính trị xứng đáng kính trọng. Trước đó, ông bị thương. Tôi rẽ thăm ông tại căn hộ. Ông nằm, nhưng vết thương không nặng, chỉ bị ở phần mềm của chân, xương không bị rạn gãy, đạn chỉ có trúng cẳng chân. Larin nói chuyện, tỉnh táo. Bà vợ và các bác sỹ quân y chăm sóc ông. Sau đó người ta kể cho tôi rằng trước khi bị đem bắn, ông tương đối vui vẻ chuyện trò với vợ. Malinovsky cực kỳ xúc động bởi sự kiện và than khóc Larin. Tôi không biết làm sao an ủi ông. Người ta gọi hành động như thế là gì nhỉ? Vì sao Larin bị bắn? Sau đó, trợ lý của Larin thông báo tình tiết sự kiện.

Tình tiết tương đối không rõ ràng. Larin đến tiền tuyến và quan sát trận đánh dưới sự che chở của một đống cỏ khô. Ông đi đi lại lại, như bóng lờ mờ trước quân địch, rõ ràng là ông tìm cái chết. Hoàn toàn không cần thiết phải tự thân làm như thế. Ông đơn giản thu hút đạn về phía mình. Tất nhiên chẳng bao lâu ông bị thương. Mặc dù vết thương không trầm trọng, bỗng nhiên ông bị bắn. sự việc ra sao? Việc bắn nhau là thường từ đầu chiến tranh, khi chúng tôi rút lui. Nhưng bây giờ chúng tôi tấn công, bao vây quân Paulus, giao chiến với Manstein, có thể nói, ở bước ngoặt phòng thủ. Từ lâu, chúng tôi đã thôi bỏ chạy, bắt đầu một giai đoạn mới của quân đội chúng tôi chống lại kẻ thù. Tập đoàn quân cận vệ №2, mạnh và rắn chắc, thành công giáng đòn vào Manstein. Và bỗng nhiên Larin bị bắn? Larin để lại mẩu giấy, cũng rất lạ lùng. Tôi không thể hồi phục chính xác nội dung của nó, nhưng ý là ông tự sát, sau đó có câu “Lenin muôn năm!” Và ký. Chúng tôi gửi mẩu giấy ấy về Moskva. Tổng cục trưởng Tổng cục chính trị lúc đó là Sherbakov. Sherbakov - một cán bộ nhiều năm trong thành phần cán bộ cỡ Bí thư tỉnh uỷ. Sau này, tôi va chạm với tính cách khó chịu của ông. Nhưng khi ông đã nhận mẩu giấy này, thì ông bắt đầu “sử dụng” nó. Tôi không biết thậm chí, ông theo đuổi mục tiêu gì. Larin cũng đã bị bắn. Không phải ông giận Malinovsky và độc ác của Stalin, không phải ông “đào bới” sự việc nhằm chống tôi như uỷ viên hội đồng quân sự mặt trận, mà tại đó lại xảy ra một trường hợp như thế. Lúc ấy, người ta mời tôi về Moskva. Tổ chức một bữa ăn trưa thường lệ ở chỗ Stalin với tất cả mọi người, như người ta nói, “đủ lệ bộ”: uống rượu xem xét những biến cố xảy ra trong 24 giờ qua.

Stalin hỏi tôi:

- Hỏi riêng nhé, Malinovsky là người thế nào?

Tôi trả lời:

- Tôi nhiều lần báo cáo với ông về Malinovsky. Đây là một tướng nổi tiếng chỉ huy quân đoàn từ đầu chiến tranh, sau đó - tập đoàn quân, sau đó - mặt trận miền Nam. Ông ta ở đó cũng không thành công. Ông cũng có biết.

Stalin, tất nhiên, biết rằng mặt trận này bị kẻ địch đánh tan. Quân địch chiếm dễ dàng Rostov, vì thế Malinovsky bị cách chức và bị chuyển về phía sau. Sau này Malinovsky chỉ huy tập đoàn quân №66, là phó tư lệnh mặt trận Voronez, sau đó hình thành tập đoàn quân cận vệ №2. Tôi nhớ lại rằng nơi mà Larin phục vụ, cũng là nơi mà Malinovsky yêu cầu Larin về làm việc chỗ mình và bị chết, để người ta nhượng bộ ông.

Cần nói rằng Sherbakov người thợ lành nghề lợi dụng việc như thế để không làm Stalin nguội đi, mà, ngược lại, bồi thêm tư liệu để kích động Stalin. Sherbakov hiểu rằng cơn giận chống Malinovsky sẽ nổ ra, trực tiếp hoặc hían tiếp, chống tôi.

- Tất cả việc này - Sherbakov nói - không phải ngẫu nhiên. Vì sao Larin không viết “Stalin muôn năm!”, mà viết “Lenin muôn năm!

Tôi trả lời:

- Tôi không thể nói. Larin bị bắn, hình như dưới ảnh hưởng của trạng thái thần kinh không bình thường. Giá như ông ta ở trạng thái bình thường, thì đã không bị bắn. Không có lý do gì để Larin tự sát cả.

Mọi việc tỏ ra đã rõ ràng. Nhưng không phải thế, Sherbakov lại nhai đi nhai lại những lời của mình, sát muối vào vết thương. Khi đó tôi chịu đựng nhiều điều khó chịu.

Tất nhiên thuận lợi nhất đối với tôi đơn giản nói rằng Larin là đáng khinh như thế này, thế nọ, và Malinovsky cũng thế. Nhưng tôi không đồng ý với điều đó và không thể nói như thế cho Stalin. Nhưng Stalin mới hỏi:

- Malinovsky là người thế nào?

Tôi trả lời:

- Tôi biết Malinovsky. Và tôi biết chỉ với mặt tốt. Tôi không thể nói rằng tôi biết Malinovsky nhiều năm, nhưng tôi biết Malinovsky từ khi bắt đầu chiến tranh. Suốt thời gián đó ông giữ thân rất tốt, kiên định như một con người cũng như vị tướng.

Trên đầu Malinovsky vẫn lơ lửng mối đe doạ. Lúc ấy người gắn chuyện thất thủ Rostov, và Larin tự sát - tất cả quy về một mối. Stalin nói:

- Khi nào anh quay về mặt trận, phải theo dõi Malinovsky. Anh phải luôn có mặt ở ban tham mưu Tập đoàn quân cận vệ №2. Hãy theo dõi tất cả các hành động, dấu hiệu, sắp xếp của Malinovsky.

Tóm lại, cá nhân tôi chịu trách nhiệm về Malinovsky và tập đoàn quân của ông, cần phải để mắt quan sát Malinovsky từ Đảng và từ Tổng hành dinh. Tôi nói:

- Đồng chí Stalin, được, ngay khi tôi đi, tôi sẽ túc trực với Malinovsky.

Tôi bay về Verkh Sarisynsky. Khi đó đồng chí Ulbrich cùng với hai người người cộng sản Đức cũng bay tới chỗ tôi. Họ đến tiến hành sự tuyên truyền chống phát xít tại trận địa bằng loa điện, kêu gọi quân Đức ra hàng. Việc này chủ yếu làm về chiều và đêm. Ulbrich trườn mình theo các đường phân giới với chiếc loa điện nói chuyện với lính và sĩ quan quân Paulus.

Chúng tôi luôn luôn chuyện trò cùng với Ulbrich, và tôi đùa:

- Đồng chí Ulbrich ơi, hôm nay ông ăn trưa không làm việc, nên chẳng có ai ra hàng cả.

Ông bình tĩnh tiếp tục công việc của mình. Một lần người ta báo cáo với tôi rằng có một người lính từ vòng vây chạy sang phía ta. Tôi nói:

- Dẫn anh ta đến, để tôi biết tâm trạng của anh ta và xem anh ta đánh giá tinh thần đồng đội của mình như thế nào.

Họ dẫn tới. Tôi nói:

- Anh người dân tộc nào?

- Ba Lan.

- Làm sao anh lại vào quân đội Đức?

- Tôi sống ở vùng đất Ba Lan, vùng này lại thuộc về nước Đức, tôi bắt tôi đi lính.

- Chúng tôi, có lẽ, sẽ thành lập quân đội Ba Lan mới. Phải giải phóng Ba Lan. Anh thấy điều này thế nào?

- Đúng, phải giải phóng.

- Còn anh có tình nguyện vào quân đội Ba Lan chứ? Đi đến đó chứ?

- Không, tôi không đi.

- Làm thế nào giải phóng Ba Lan?

- Người Nga sẽ giải phóng Ba Lan.

Và anh ta trả lời khá trâng tráo. Tôi không thích điều này. Tôi nói với Ulbrich:

- Đấy, lính của anh, không phải người Đức - mà là người Ba Lan, bỏ chạy khỏi bọn Đức, nhưng anh ta thậm chí không chịu giải phóng nước Ba Lan của mình”.

Sau đó một số tù binh Đức bị bắt, vừa đúng trước Lễ Giáng sinh. Tôi nói rằng giải họ đến ban tham mưu Malinovsky, và chúng tôi bắt đầu thẩm vấn họ. Nhưng đây không phải là buổi hỏi cung, mà là cuộc nói chuyện mang tính tuyên truyền. Chúng tôi tiến hành nói chuyện cùng với Walter Ulbrich. Đầu tiên, tôi ra lệnh đưa họ vào nhà tắm, tắm rửa, thay quần áo, không còn chấy rận, cho họ mỗi người 100 gam vodka (Lễ Giáng sinh mà!), cho họ ăn uống. Rồi chúng tôi bắt đầu nói chuyện với họ. Một tù binh đặc biệt khác hẳn là có tâm lý tốt. Ông ta là người chống bọn Nazzi, chống Hittler, chống chiến tranh. Ulbrich nói với anh ta:

- Chúng tôi muốn đưa anh quay lại. Anh đồng ý đi chứ?

Anh ta trả lời:

- Đồng ý. Thậm chí tôi đề nghị, dưa tất cả chúng tôi. Chúng tôi quay lại và sẽ kẻ hết cho đồng đội của mình.

Tuy nhiên có sự phân liệt trong nhóm này. Một tù binh nhận xét:

- Vì cái gì mà người ta tung chúng ta trở lại? Nếu bây giờ các ông ném chúng tôi sang đó, thì người ta sẽ bắn. Chẳng ai tin chúng tôi chạy khỏi các ông, chẳng có giả thiết khác cả, các ông tưởng tượng ra.

Một cuộc đấu khẩu khá nghiêm túc xảy ra giữa các tù binh giữa. Một người Đức “của chúng tôi” nói:

- Anh là người nhát gan! Còn tôi sẽ đi. Cứ để người ta bắn tôi, mà còn điều đó có vai trò của mình”.

Chúng tôi và Ulbrich cũng đồng ý ném nhóm tù binh này về phía địch. Bỗng nhiên, Tolbukhin biết điều này và đến gặp tôi:

- Đồng chí Khrusev, tôi biết, ông và Ulbrich tưởng tượng cái gì rồi. Đừng làm điều ấy, tù binh bây giờ biết chỗ đóng ban tham mưu của chúng ta, họ sẽ đưa tin cho người của họ và ném bom chúng ta. Ông đừng tung họ đi cho đến khi tôi di chuyển ban tham mưu đến chỗ khác. Tôi không muốn bắt mọi người phải chịu nguy hiểm.

Tôi nói:

- Sao thế? Chúng tôi dẫn họ đến bịt mắt và xích tay, họ cũng không biết, đang ở đâu.

- Không, tôi không thể liều như thế.

Tôi thấy, nếu Tolbukhin kể cho Stalin, thì Stalin không ủng hộ tôi. Tôi không nói cho Ulbrich về tâm trạng của Tolbukhin, mà chỉ nói:

- Đồng chí Ulbrich, hình như hành động này bị từ chối, vì rằng nó mạo hiểm, tù binh có thể chỉ chỗ đóng quân của ban tham mưu chúng tôi.

- Ô dào, không thể, nghĩa là, không thể!” Việc đó vẫn làm. Chừng mực nào đó có nguy hiểm thực sự cho Tolbukhin? Tôi không đồng ý với ông. quả là quá thận trọng. Tôi nghĩ rằng chẳng có nguy hiểm nào cả đối với ban tham mưu, thậm chí nếu chúng tôi ném những người này vào “nồi hơi”.

Đánh nhau vẫn tiếp tục. Chúng tôi bắt đầu ép địch về hướng Kotenikovsky. Tình hình phức tạp đến mức ban tham mưu mặt trận Stalingrad rất khó điều khiển quân đoàn trực tiếp giữ vững vòng vây quân Paulus, và quân đoàn khác tấn công vào Manych Rostov. Họ đề nghị chúng tôi chia xẻ mặt trận. Một chỉ thị xuất phát từ Tổng hành dinh. Tôi không biết do khởi xướng của Stalin hoặc của ai đó của Bộ tổng tham mưu. Nhưng ở đó người ta hiểu sự phức tạp ở mặt trận. Đã bố trí tập đoàn quân đối mặt với Paulus, trả lại mặt trận sông Đông, còn bộ đội sang hướng nam và nhìn sang phương Tây, mặt trận miền nam. Chúng tôi lấy làm tiếc chia tay với sự thống nhất như thế nhận được ý nghĩa lịch sử thật sự, như tập đoàn quân №62 đã giơ ngực bảo vệ Stalingrad; như tập đoàn quân №64 do Sumilov chỉ huy; như như tập đoàn quân №57 và những binh đoàn khác. Tập đoàn quân №62 và tập đoàn quân №64 trấn giữ nửa vòng vây và đánh bật quân Đức xé rách Stalingrad. Tập đoàn quân №57 xé rách ban đầu ở chính Stalingrad, sau đó tất cả họ chuyển đến tiền tuyến. Chúng tôi cùng sống chết và những con người này. Nhưng, khi Stalin gọi, tôi nói với ông:

- Chúng tôi sẽ làm điều này. Tôi cho rằng điều này là đúng, vì lợi ích sự nghiệp, như thế sẽ tốt hơn.

Stalin cũng gọi cho Eremenko. Tôi không biết, ông với Stalin nói chuyện gì và ông trả lời Stalin như thế nào

Tôi bắt gặp Eremenko suýt rơi nước mắt. Tôi an ủi ông.

- Nào, Andrey Ivanovich, anh sao thế? Đây chính là vì lợi ích sự nghiệp. Anh không thấy tập đoàn quân chúng ta bây giờ quay về phía Nam. Nhiệm vụ của chúng ta - tấn công, đánh vào sườn địch nằm ở Bắc Kavkaz, ngăn chúng tiến đến Rostov. Nhưng ở Stalingrad - phòng thủ, tất cả ở đây tuyệt vọng, kẻ địch phải bao bọc chắc hơn, và chính kẻ địch chết vì đói, chúng không có đạn, không có thức ăn, không có quần áo.

- Đồng chí Khrusev, ông không hiểu, ông là dân sự, hình như ông không thông cảm, bao nhiêu chúng tôi, những những người lính, chịu khổ sở ra sao. Chúng tôi suýt nữa tuyệt vọng. Ông nhớ khi nào Stalin gọi điện, hãy đề nghị cho chúng tôi ở thêm ba ngày? Họ cho rằng quân Đức chiếm Stalingrad, còn chúng tôi như con dê tế thần. Và bây giờ là như thế đấy! Ông có thể không biết, nhưng tôi biết, tôi thấy trước rằng vinh quang Stalingrad sẽ thuộc về mặt trận sông Đông!

Tôi an ủi ông:

- Vinh quang lớn nhất - đó là thắng lợi của nhân dân chúng ta. Ý nghĩa lớn nhất là sự thoả mãn của người này người khác và chỉ huy quân đoàn, đấy mới là chính!

Nhưng tôi không cách nào làm ông tin. Ông quả là người chịu nhiều khổ sở, tốn nhiều sức lực, năng lượng, tài năng, hiểu biết và tính kiên trì vào chiến thắng của chúng tôi. Tôi không biết, dùng bao nhiêu lời để có thể đánh giá ý nghĩa sức lực của những người như Eremenko, người chỉ huy quân đội mặt trận Stalingrad. Tôi muốn, mọi người hiểu tôi, tôi ở mức độ nào đấy có ý hạ thấp phẩm chất của Rokossovsky. Đây là một chỉ huy quân sự cực kỳ tài năng và một đồng chí đáng quý. Tôi và ông có ít việc với nhau, nhưng mỗi lần gặp, mỗi lần tiếp xúc với ông luôn luôn cho tôi những ấn tượng tốt nhất về Rokossovsky. Tuy nhiên trong lịch sử, tôi cho rằng chủ yếu không phải ở ông: Stalingrad có tiếng vang khắp thế giới, mà không phải mặt trận sông Đông. Tuỳ vào phán xét…

Về nguyên tắc, chức năng mặt trận sông Đông là khác. Giả dụ địch chiếm Stalingrad, thì nó, tất nhiên, quay lại tấn công lên phía bắc. Nghĩa là, Tổng hành dinh đã làm đúng, bố trí ở đó thêm một mặt trận và bổ nhiệm một người chỉ huy đĩnh đạc, tướng Rokossovsky. Nhưng bây giờ tình thế thay đổi. Không phải quân Đức quyết định hướng tấn công chính, mà là chúng tôi. Chúng tôi hướng bộ đội của mình về hướng nam, để đánh bại quân đội Đức nằm ở Bắc Kavkaz. Điều đó, tất nhiên, là quyết định duy nhất đúng. Danh dự trả lại cho người đánh bại Paulus. Nhưng người chỉ huy, mang tất cả sức mình phòng thủ, muốn tự tay kết thúc chiến dịch đã đặt ra, tự tay nắm chặt nguyệt quế thắng lợi. Và thực tế lại không ở mặt trận Stalingrad. Mặt trận phía nam để lại cho Eremenko, tấn công Bắc Kavkaz và miền tây, và mặt trận sông Đông, đi được đến chỗ Paulus. Điều này không thể uý lạo Eremenko, không thể!

Trong cuộc chiến như thế, kết thúc thiên hùng ca chiến đấu ở Stalingrad. Bắt đầu một giai đoạn khác của chiến tranh. Giai đoạn tấn công sang phía tây để giải phóng.





[i] Một loại xe của Mỹ, giống xe Jeep, do Mỹ viện trợ cho Liên Xô 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét