Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2013

(10) HỒI KÝ KHRUSEV

HỒI KÝ KHRUSEV
Nhà xuất bản “VAGRIUS”, 1997 
Nguyễn Học (dịch từ bản tiếng Nga) 
Sau Đại hội 20 ĐCS Liên Xô
Ngay sau Đại hội 20, trong tất cả các Đảng cộng sản, đặc biệt Pháp và Ý bắt đầu xúc động. Cũng dễ hiểu rằng đó là những Đảng vô sản, đông quần chúng, mà tại những phiên toà xử “kẻ thù nhân dân” lại có mặt Thorez và Toliatti, hai ông này về sau làm nhân chứng cho nước họ rằng những người bị khép tội là đúng luật. Thế mà bây giờ tất cả xoay ngược lại! Tình tiết này cũng ngăn họ không công bố tư liệu phiên toà công khai, mặc dù cũng chẳng có tội ác nào cả và các bản án chỉ có tính ý nguyện và không chứng minh được tội ác của những bị cáo “tự thú nhận”.
Bắt đầu mây đen ở Ba Lan. Sau Ba Lan, lan sang Hungary. Sau khi người lãnh đạo Ba Lan là Berut qua đời, tôi, đại diện toàn quyền Ban chấp hành Trung ương ĐCSLX, đến Warsawa, tham dự phiên họp toàn thể Ban chấp hành Trung ương Đảng công nhân thống nhất Ba Lan. Tôi không có mặt tại các phiên họp này để người ta không buộc tội Liên Xô can thiệp vào nội bộ Đảng anh em. Các phiên họp tiến hành rất sóng gió, các uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng công nhân thống nhất Ba Lan bày tỏ không hài lòng với Liên Xô. Những người trong Ban chấp hành Trung ương Đảng Ba Lan, thân với chúng tôi, đã kể như thế. Điều này làm chúng tôi không sung sướng gì, nhưng chúng tôi cho rằng đây là thể hiện dân chủ - một yếu tố tích cực. Tuy nhiên, sau một thời gian, ở đấy xảy ra những sự kiện làm chúng tôi lo ngại.


Tại phiên họp toàn thể, Okhab được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng công nhân thống nhất Ba Lan. Chúng tôi cũng có những quan hệ cá nhân tốt với Okhab. Tôi kính trọng ông, theo tư liệu, ông hoàn toàn xứng đáng điều này. Một người cộng sản lão thành, trải qua trường học cách mạng trong tù. Và thoạt đầu, chúng tôi cho rằng ông xứng đáng tin cậy. Sau khi ông được bầu làm Bí thư thứ nhất, chúng tôi hội đàm với ông, và tôi đặt vấn đề:

- Tại sao Gomumka lại ngồi ngồi tù ở Ba Lan?

Khi tôi nói điều này với Berut, thì ông ta trả lời tôi như thế này:

- Tôi và chính tôi cũng không biết, tại sao Gomumka ngồi tù và ông bị buộc tội gì.

- Ông nghĩ xem, có thể tha ông ấy được không?

Thế là Okhab bắt đầu chứng minh với tôi rằng không thể tha được. Ngồi tù không chỉ một mình Gomumka: mà còn cả Slykhansky, cả Loga-Sovinsky, Klisko và nhiều người khác. Điều này làm tôi lo ngại, và tôi không thể nào hiểu, vì sao họ bị giữ trong tù. Tôi thảo luận hầu như với tất cả các vị lãnh đạo Đảng công nhân thống nhất Ba Lan, và họ đều chứng minh rằng không thể làm một cái gì cả, không thể tha những người này.

Sau một thời gian, Okhab dẫn đầu Đoàn đại biểu đến Trung Quốc. Khi họ quay về nước, ghé qua Moskva, tôi lại bàn bạc với Okhab. Trước đó Gomumka được tha, và tôi hỏi Okhab:

- Liệu chúng tôi chúng tôi có thể mời Gomumka đến Liên Xô, nghỉ ở Hắc hải, ở Krym hoặc Kavkaz, nơi có khí hậu tốt lành để nghỉ hơn là ở Ba Lan.

Ông trả lời không rõ ràng và quay về Warsawa. Điều này làm tôi lo ngại, thậm chí còn băn khoăn. Và đúng sau một vài ngày đại sứ của chúng tôi ở Ba Lan cho biết ở Ba Lan bùng ra sự kiện là nhiều người Ba Lan phỉ báng Liên Xô và suýt nữa thì đảo chính, do những người chống Liên Xô tiến hành. Phát sinh mối đe doạ tuyến giao thông, liên lạc của chúng tôi ở CHDC Đức, qua Ba Lan. Nhưng sự kiện ở Ba Lan chúng tôi rất lo ngại và có những nguyên nhân khác nhau, và chúng tôi quyết định áp dụng các biện pháp để đảm bảo cho chúng tôi tự do qua lại Ba Lan và đảm bảo liên lạc với quyết định Liên Xô ở CHDC Đức. Chúng tôi dự định cử một Đoàn đại biểu đến Ba Lan, nhưng trước khi đi, chúng tôi gọi điện cho phía Ba Lan. Tình hình ở đó tiếp tục nóng bỏng. Báo chí Ba Lan mạnh mẽ phê bình Liên Xô, dường như Liên Xô cướp bóc Ba Lan, mua than của họ theo giá rẻ và bán cho họ quặng sắt theo giá cao. Những việc này quả thật xảy ra thời Stalin, khi chúng tôi mua bán với các nước dân chủ nhân dân không theo giá thế giới, mà là áp đặt. Lãnh đạo Ba Lan khuyên chúng tôi không đến vào lúc này. Nhưng điều này lại càng làm chúng tôi lo ngại hơn, vì lẽ những người Ba Lan rõ ràng chứng minh rằng họ không muốn gặp chúng tôi Và chúng tôi quyết định nhanh chóng cử một Đoàn đại biểu đến đó gồm: Khrusev, Mikoyan, Bulganin và một số người khác.

Chúng tôi bay đến Warsawa. Ở đó chúng tôi gặp Okhab, Gomumka, những đồng chí khác. Cuộc gặp rất lạnh lùng. Khuôn mặt của Okhab lộ rõ vẻ lo âu. Tất cả kéo đến dinh thự, cung điện ở Larenka nơi bắt đầu đàm phán ở mức gay gắt. Chúng tôi cảnh cáo về việc làn sóng chống xô viết tăng lên ở Ba Lan và tuyên bố rằng chúng tôi kiên quyết đảm bảo giao thông, liên lạc của mình với quân đội xô viết ở CHDC Đức. Đó là áp lực thẳng thừng từ phía chúng tôi. Okhab nổi khùng:

- Ông đưa yêu sách cho tôi phải không? Bây giờ tôi không phải là bí thư Ban chấp hành Trung ương. Ông đi mà hỏi người khác.

Và ông ta chỉ sang Gomumka. Lời nói của Okhab lộ ra vẻ không hài lòng. Chúng tôi khi ấy có một ấn tượng nặng nề về tình hình trong ban lãnh đạo Ba Lan. Chúng tôi không biết thực chất tình hình và sợ rằng chính quyền rơi vào tay những người đang tiến hành chính sách chống Liên Xô. Nhưng chúng tôi không muốn trở lại những quan hệ của chúng tôi với Ba Lan như trước chiến tranh, mà chúng tôi vẫn chưa phai trong đầu.

Gomumka cố gắng xua tan nghi ngờ của chúng tôi. Ông đồng ý rằng tình thế ở Ba Lan là phức tạp và làn sóng chống xô viết tăng lên. Nhưng ông cam đoan tình hữu nghị với Liên Xô cần thiết sống còn đối với Ba Lan và mối quan hệ của chúng tôi không bị phá huỷ. Tôi tin rằng trong một thời gian ngắn, thì làn sóng không hài lòng sẽ bị bớt đi và tình hình trở lại bình thường. Tuy nhiên sau này bắt đầu thên sự kiện ở Hungary. Lúc đó, theo tôi, có hai Đảng cộng sản, mà lãnh đạo không yên ổn. Ở Hungary thời Stalin cũng nhiều người bị bắt bắt, tôi cho rằng không phải Stalin khởi xướng bao nhiêu thì Rakosi làm bấy nhiêu. Điều này được làm thông qua cố vấn của chúng tôi do Stalin cử đến ngồi ở Ba Lan, Hungary, và các nước anh em khác. Qua những người này, Stalin hành xử ở đó với cùng một phương pháp hành xử ở Liên Xô. Sau các cuộc thương thuyết ở Warsawa chúng tôi quay về Moskva dưới một ấn tượng lời tuyên bố căng thẳng nhưng chân thật của Gomumka rằng tình hữu nghị của Ba Lan với Liên Xô cần hơn tình hữu nghị của Liên Xô với Ba Lan. Ông nói:

- Chẳng có lẽ chúng tôi không hiểu tình thế mà chính chúng tôi không có Liên Xô không giữ được biên giới phía tây của mình. Chúng tôi tự xem lại các vấn đề nội bộ, những quan hệ với Liên Xô vẫn là, vẫn là tình hữu nghị không thay đổi và liên minh.

Mặc dù ông nói điều này hơi cao giọng, nhưng không đến nỗi khó để tin. Và tôi tin ông, nói với các đồng chí của mình:

- Tôi nghĩ rằng chúng tôi không có cơ sở để không tin Gomumka. Ông được bầu Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng công nhân thống nhất Ba Lan. Phần đông các đồng chí Ba Lan tin ông. Tôi cảm thấy rằng lời tuyên bố của Gomumka được những người khác ủng hộ. Chính ông nói điều này không phải là bí mật, mà là công khai, tại cuộc họp lãnh đạo. Tất cả mọi người đã nghe thấy. Phải cho rằng lần này không ai, tất cả đều đồng ý.

Tuy nhiên một thời gian dài tình hình ở Ba Lan vẫn căng thẳng và làm chúng tôi rất lo ngại.

Trước mắt chúng tôi còn có cả những mối quan hệ với các nước làng giềng. Thời kỳ đó, vấn đề nghiêm trọng nhất - chất lượng sản phẩm của chúng tôi. Đáng tiếc, chúng tôi không cách nào đuổi kịp các nước tư bản. Nhưng để thi đua thành công với họ, để chủ nghĩa xã hội lôi cuốn mọi người, chúng tôi cần làm tốt nhất. Chúng tôi phải ngả mũ kính chào chủ nghĩa tư bản. Điều này thật xấu hổ. Đáng tiếc, anh hãy dùng radio, ô tô, máy ghi âm của chúng ta sản xuất. Chất lượng ra sao? Chúng tôi ghi nhận 50 năm cách mạng tháng Mười bằng việc mua ở “chủ nghĩa tư bản thối nát” nhà máy ô tô mác “Fiat”.

Chắc chắn những ô tô này ở đó là lỗi thời, mà những người tư bản không phải là ngu: họ bán cho chúng ta model thải ra khỏi sản xuất, chính họ lại lắp model mới. Đáng tiếc, chúng tôi vẫn còn không thể làm việc chúng tôi mong muốn. Tôi nói rằng chúng ta vẫn còn lạc hậu. Nhưng những người lạc hậu, từng có một lúc nào đó sống ở Nga, đã chết từ lâu rồi. Hãy lấy Nhật Bản làm thí dụ: Nhật Bản hoàn toàn tiêu điều sau chiến tranh, bây giờ chiếm vị trí hàng đầu trên thế giới. Nhật Bản cũng đọ sức trong vấn đề tiến bộ kỹ thuật với Mỹ và Tây Đức cũng một phần nào nằm trong đống đổ nát.

Thật ra trong một số lĩnh vực khoa học và kỹ thuật chúng tôi đang ở phía trước. Chẳng hạn, chúng tôi phát minh ra phương pháp rót thép nóng chảy thép liên tục. Chúng thậm chí chúng tôi đã bán hát minh cho Mỹ. Nhưng những thí dụ như thế chỉ là nhỏ so sánh với cái chúng tôi mua từ họ. Khi chúng tôi cố sức mở rộng khai thác dầu mỏ, chúng tôi cần chất chỉ thị buryl. Chúng tôi làm được những chất chỉ thị tốt, tuy nhiên chất chỉ thị của Mỹ không thể so sánh được với chúng ta. Lúc ấy Mỹ vượt xa Liên Xô. Chất chỉ thị buryl tốt nhất này được sản xuất ở Rumani. Tôi hỏi Georgy-Degia về điều này. Ông mỉa mai: người ta nói chúng tôi là ở Mỹ có một nhà tư bản người Rumani trong ngành công nghiệp dầu mỏ. Ông ta giúp đỡ chúng tôi đánh cắp bản thiết kế của Mỹ. Các thiết bị của Rumani làm theo bản thiết kế của Mỹ. Chúng tôi muốn mua của Rumani bản thiết kế này. Tôi nói Georgy-Degia:

- Cho chúng tôi bản thiết kế nhé!

Ông nói:

- Cầm lấy đi.

Cầm lấy đi… với người Rumani giữa từ “cầm lấy đi” và “nhận đi” - một khoảng cách rất xa.

Nói chung lãnh đạo Rumani còn trẻ. Họ thúc đẩy nhanh nền công nghiệp của mình, xây dựng nông trang nhanh và tốt. Rumani về văn hoá trước đây đứng dưới các nước Đông Âu, bây giờ thì cao hơn, chẳng hạn, nông dân mù chữ. Nhưng, dù thế, Rumani chẳng bao lâu nữa sẽ đi lên. Tất nhiên Rumani có điều kiện thiên nhiên thuận lợi hơn các nước xã hội chủ nghĩa khác. Họ, nói riêng, có nhiều dầu mỏ, khí đốt, rừng, bánh mỳ. Các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng chưa phải có đủ lương thực, còn Rumani xuất khẩu bột mỳ. Chúng tôi thường giận Rumani rằng họ bán bột mỳ cho thế giới tư bản, mà không bán cho các nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng nếu lấy thí dụ Ba Lan có thừa ngũ cốc, họ có lẽ, khôn hơn Rumani. Họ có thể bán lúa mỳ cho CHDC Đức bằng hàng hoá giá trị. Nhưng chính là mỗi quốc gia đều muốn có ngoại tệ và chạy ra thị trường thế giới. Vì thế không thể giận Rumani.

Nhân đây, tôi nhớ lại có lần Gomumka đến Moskva và đề nghị bán cho Ba Lan lúa mạch ngoài kế hoạch, mà cái đó chính lại là bánh mỳ của chúng ta. Tôi thấy Gomumka khôn lỏi, không nói thật, và tôi nhận xét:

- Ông muốn mua luá mỳ, nhưng tôi biết rằng Ba Lan tự cung cấp được lúa mạch. Ông muốn mua ngũ cốc của chúng tôi để nuôi lợn ­và bán thịt thăn hun khói cho Mỹ.

Gomumka luống cuống, sau đó trả lời:

- Đúng.

- Và ông nghĩ rằng chỉ có người Ba Lan biết làm điều đó, còn người Nga - là những người ngu sao? Ông mua ngũ cốc ở Canada bao nhiêu cũng được, biến thành thịt và bán thịt đi.

- Nhưng ở đó phải trả ngoại tệ.

Vấn đề thế đấy. Mối quan hệ tương hỗ giữa các nước xã hội chủ nghĩa cũng có thể rất phức tạp, và có những lý do khác nhau. Sau cuộc đàm phán này với Gomumka tất cả chúng tôi cung cấp ngũ cốc cho Ba Lan. Nhưng chẳng có lẽ đây là một một trường hợp duy nhất, khi Liên Xô bớt miệng để giúp đỡ những người bạn?

Bao nhiêu lần, đôi khi, chúng tôi đồng ý kế hoạch, nhưng sau đó Gomumka hoặc lại có ai đấy gọi:

- Đồng chí Khrusev, tôi đề nghị tiếp tôi, chúng tôi có vấn đề hóc búa.

Người ta đến.

- Đồng chí Khrusev, ông cung cấp cho chúng tôi chừng này quặng với hàm lượng sắt chừng này, chúng tôi không hoàn thành kế hoạch. Hãy giúp chúng tôi, cho chúng tôi nhiều quặng hơn, hàm lượng sắt cao hơn.

Nhưng cái đó nghĩa là gì? Chúng tôi cho họ số quặng, mà để có được điều này chúng tôi phải chế biến từ quặng sắt hàm lượng thấp. Lại chuyện cà chua Bulgary. Chúng tôi nhận những thứ không ra gì. Người Bulgary quen nghic rằng người Nga ăn mọi thứ rác rưởi, xin lỗi vì cách nói này, thế là họ hái cà chua còn xanh, và làm chín đỏ chúng khi vân chuyển. Đó là những thứ kém phẩm chất! Họ cũng chở cà chua đến Tây Đức, nhưng không phải loại cà chua như thế, vì rằng sẽ không ai mua, ở đó là sự cạnh tranh. Nhưng họ bán để người tiêu dùng nước ta ăn. Đấy là cà chua kỳ diệu. Bulgary - nước trồng trọt tốt nhất thế giới. Nhưng cà chua ngon, chỉ khi hái chúng vào buổi chiều, còn buổi sáng thì mang lên bàn.

Nhiều vấn đề khác nhau nảy sinh quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa. Nếu không đề cập và giải quyết, thậm chí có thể gây ra xích mích. Chúng tôi giận là nhiều nước xã hội chủ nghĩa nhìn Liên Xô như con bò sữa. Nhưng chính chúng tôi còn sống khổ hơn nước nước mà chúng tôi giúp đỡ. Mức sống được xác định bằng sự tiêu thụ trên một đầu người dân. Thí dụ tiêu thụ thịt. Năm 1964 ở CHDC Đức 75 kg đầu người một năm, ở Tiệp Khắc là 65, Ba Lan - dưới 50, sau đó là Hungary, sau đó chỉ có - Liên Xô, và thấp hơn là Bulgary - 26 kilogam. Có lần nói với Ulbrich:

- Walter, tôi không cần bình quân đâu, nhưng phải hiểu tình thế chúng tôi. Chúng tôi chiến thắng, chúng tôi đánh tan Đức Hittler, và chúng tôi cho CHDC Đức ngũ cốc và hàng hoá giá trị ngoại tệ, để ông có thể bán cho nước ngoài, mua về thịt và đảm bảo tiêu thụ trên đầu người là 75 kg. Nhưng ông có lo cho chúng tôi không?

Những tư duy chính trị, đặc biệt trong quan hệ CHDC Đức cũng ảnh hưởng đến các vấn đề như thế. Người ta muốn mức sống Đông Đức phải hơn Tây Đức. Chỉ riêng điều đó có thể lôi kéo tất cả người Đức chạy về phía chúng ta. Nhưng hiện thời chưa có thế.

Vấn đề bồi thường chiến tranh cũng đáng quan tâm. Các nước phương tây bỏ khoản bồi thường chiến tranh, mà Tây Đức phải trả cho họ, còn CHDC Đức tiếp tục trả chúng ta những cái gì có thể. Khi Stalin qua đời, chúng tôi một lần nữa đặt vấn đề này: nếu chúng tôi muốn Đông Đức có thể chạy đua về mức sống với phương Tây, cần cho họ khả năng nâng cao kinh tế mạnh hơn. Nếu tiếp tục trả bồi thường chiến tranh và nuôi quân đội Liên Xô ở CHDC Đức bằng tiền của họ, thì không thể làm được điều này. Và chúng tôi bỏ khoản bồi thường chiến tranh, và chúng tôi nhận về mình khoản nuôi quân đội. Người Ba Lan cũng thích điều này, và họ cũng vặt lông và kiếm lợi ở chỗ bộ đội chúng tôi vì lợi ích của chính Ba Lan đóng trên lãnh thổ Ba Lan. Nhiều vấn đề phức tạp tồn tại trong mối quan hệ tương hỗ giữa các nước dân chủ nhân dân, như người ta gọi sau chiến tranh. Ba Lan có than cốc. Một lần người Tiệp yêu cầu Ba Lan cung cáp than cho họ. Người Ba Lan đề nghị chúng tôi cung cấp dầu mỏ bổ xung cho họ, và chúng tôi vạch ra điều kiện: chúng tôi đưa cho các ông dầu mỏ theo tương đương với lượng than cốc các ông cho Tiệp Khắc. Những người Ba Lan khi đó đúng là nắm yết hầu người Tiệp. Nếu chúng tôi cũng làm như vậy, thì chúng tôi bóp cổ Ba Lan, nền công nghiệp của họ thấp kém, họ không thể bước ra thuộc trường thế giới và cạnh tranh với tư bản, lập tức mức sống của họ giảm đi, và điều này làm bùng nổ không hài lòng của dân chúng Ba Lan. Chính những người Ba Lan - mà không phải người Nga, không thích chịu đựng.

Nhớ về Tiệp khắc - nhớ ngay về nền công nghiệp phát triển cao của họ. Khi chúng tôi còn cởi truồng chui bàn, thì người Tiệp đã làm được những thứ làm sửng sốt thế giới. Chẳng hạn, những cỗ pháo phòng không của họ cùng chúng tôi trải qua chiến tranh. Trước chiến tranh, người Tiệp đã bán cho chúng tôi nhà máy Skoda nổi danh, chúng tôi sử dụng chúng trong sản xuất đến tận 1945. Có lần năm 1948 Gotwald nghỉ ở Krym với Stalin. Stalin gọi cho tôi:

- Gotwald ở đây, ông đến đi.

Hôm sau tôi bay đến. Mọi người tụ họp ăn cơm ở chỗ Stalin. Gotwald uống say (ông có nhược điểm này) và nói:

- Đồng chí Stalin, tại sao các ông lại cho người ăn cắp bản quyền sáng chế của chúng tôi? Ông cứ nói với chúng tôi, và chúng tôi tặng tất cả không lấy tiền đâu. Khi người của các ông ăn cắp, mà người dân chúng tôi nhìn thấy các ông ăn cắp như thế, họ phật ý đấy. Chúng tôi có thể cho các ông không những bản quyền phát minh. Hãy nhận chúng tôi gia nhập Liên Xô, chúng tôi hài lòng gia nhập Liên Xô, và tất cả những gì chúng tôi có, sẽ là của chung.

Stalin từ chối, nổi giận bởi chữ ăn cắp. Nhưng trên lời nói, bởi vì chúng tôi tiếp tục ăn cắp, thỉnh thoảng cũng theo thói quen cũ, như người Digan được được hỏi:

- Nếu anh là Sa hoàng, thì anh làm gì?

Người Digan trả lời:

- Tôi lập tức ăn cắp đàn ngựa và chạy biến đi.

Lại còn một vấn đề phức tạp - chi phí phòng thủ khối xã hội chủ nghĩa. Đúng ra thì phải chia đều, hết bao nhiêu, chia đều cho đầu người. Tôi nghĩ rằng chúng tôi có lẽ bớt đi được một nửa chi phí quân sự của Liên Xô. Nhưng việc ra sao? Chúng tôi có lần trong khuôn khổ khối Warsawa thoả thuận rằng mỗi nước cần phải tăng cường khả năng phòng thủ của mình. Rumani nhận bao nhiêu xe tăng, và nó phải đóng bao nhiêu tàu ở Hắc hải. Sau đó Bộ trưởng quốc phòng báo cáo tôi rằng người Rumani chẳng làm gì cả, không thực hiện giao ước. Lúc ấy người Tiệp hỏi tôi: Chúng tôi đã làm xe tăng cho Rumani, nhưng họ không mua chúng, nói rằng không có tiền. Tôi nói với người Tiệp:

- Thế ai còn dư tiền để tiêu chi phí phòng thủ cho họ? không có ai cả. Đây là sự cần thiết bắt buộc.

Suy nghĩ của người Rumani rất đơn giản: Liên Xô bảo vệ chúng tôi, chẳng ai tấn công chúng tôi, họ sợ Liên Xô, cứ để người Nga tốn tiền phòng thủ, còn chúng tôi sẽ nâng cao mức sống của mình. Nhưng đây là chủ nghĩa dân tộc thuần tuý. Đáng tiếc, nó lại xảy ra trong mối quan hệ tương hỗ giữa các nước xã hội chủ nghĩa.

Tôi nhớ một trường hợp tiêu biểu. Chúng tôi năm 1943 đứng trước bức tường Stalingrad. Chúng tôi đã bao vây quân Paulus, còn Ulbrich bằng loa điện yêu cầu quân Đức đầu hàng. Ông làm việc đó suốt đêm, khi chúng tôi ăn cơm với ông, tôi nói với ông bao nhiêu lính Đức ra hàng. Đôi lúc đùa:

- Hôm nay không có ăn đâu nhé.

- Vì sao?

- Chẳng có thằng lính Đức nào ra hàng cả.

Một lần ông đến và nói:

- Hôm nay tôi có bữa ăn rồi.

Nhưng tôi trả lời:

- Đúng đấy, có ăn. có một lính ra hàng, nhưng lại là lính Ba Lan.

Tôi đích thân thẩm vấn người lính Ba Lan. Anh ta nói rằng anh ta ra hàng vì không muốn đánh nhau. Và tôi đề nghị anh ta:

- Chúng tôi xây dựng quân đội Ba Lan, anh tham gia nhé?

- Không, tôi vào trại tù binh.

- Thế ai sẽ giải phóng Ba Lan?

- Người Nga.

Anh ta bình tĩnh trả lời như thế. Và tôi ra lệnh:

- Tống cổ mẹ nó đi!

Luôn luôn người Nga, lại người Nga… Nếu tâm trạng ỷ lại như vậy được thúc đẩy tiếp tục, nếu mọi người hy vọng rằng người Nga đem cho, người Nga bảo vệ, thì có thể kết thúc thảm hại phexã hội chủ nghĩa.

Lại còn một hòn đá cản đường - vấn đề biên giới. Bây giờ, chúng ta công khai xung độ với Trung Quốc, lại nổi lên vấn đề biên giới giữa các nước xã hội chủ nghĩa. Vấn đề này luôn luôn có. Nhưng lần đầu tiên trong lịch sử xô viết phát sinh xung đột quốc tế với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Thông thường luôn luôn đạt được giải quyết vấn đề, bằng cách nhượng bộ lẫn nhau và làm rạch ròi biên giới. Lúc bắt đầu xung độ với Trung Quốc, chúng tôi tìm cách giải quyết vấn đề, cũng nghĩ nhượng bộ Trung Quốc chỗ đất nào đó đổi lấy chỗ đất ngang bằng Trung Quốc trong các vùng dàn quân cả hai phía. Trung Quốc đưa yêu sách cho chúng tôi, đông viên người Trung Quốc. Malinovsky, Gromyko và tôi họp nhau. Chúng tôi nghĩ rằng lập tức chúng tôi giải quyết tất cả. Tôi lấy bút chì và vạch một đường, kéo dài dường như chia đôi theo đề nghị. Biên giới được thẳng hơn.

Chúng tôi không chờ đợi những phức tạp hơn nữa, vì rằng phần lớn vùng đất này là bỏ hoang: chẳng có người dân của chúng tôi, chẳng dân Trung Quốc sống ở đó. Đôi lúc, có thể là, những người thợ săn và người chăn thả súc vật đến đó. Tóm lại, là tranh cãi vô bổ. Nhưng người Trung Quốc chính muốn tạo ra xung đột, từ chối tham gia đàm phán và áp đặt Liên Xô những đòi hỏi phi lý, tư bản chủ quyền của họ ở Vladivostok, Pamir vân vân… Giờ đây, sau năm năm chúng tôi lại gặp nhau. Thứ trưởng Bộ trưởng Bộ ngoại giao Vasili Kuznesov đến Bắc Kinh. Có thể lại sau năm năm gặp người Trung Quốc. Lúc ấy cuộc xung đột thực chất không phải là vấn đề biên giới, mà “chính sách lớn” quốc tế. Ai chị đựng được.

Nếu vụ việc chi là về biên giới, có thể dễ dàng thu xếp được. Với Iran chúng tôi vẫn chưa có một đường biên giới xác định rõ ràng từ thời Sa hoàng. Chúng tôi vạch ra ở đó đường biên giới năm 1955, có nhượng bộ một số vùng, gần như sa mạc. Nhưng thỉnh thoảng vẫn tranh cãi! Với Iran phát sinh chỉ có một vấn đề nguyên tắc: số phận làng Firyuza ở Turmenia. Khi Sa hoàng vạch biên giới với Iran, làng Firyuza cần phải đưa về Iranу. Tôi không biết, vì sao Sa hoàng không nhường ngôi làng Firyuza. Trong thời kỳ xô viết, người Turmenia xây một nhà nghỉ ở đó. Và khi Iran đặt vấn đề làng Firyuza, chúng tôi nói cho họ:

- Hãy giải quyết trên tinh thần anh em. Chúng tôi bây giờ khó trả lại làng Firyuzaу, ở đó có nhiều nhà nghỉ của chúng tôi, chúng tôi đã phát triển khác chỗ này so với lúc vấn đề phát sinh lần đầu tiên vấn đề. Chúng tôi sẵn sàng đổi làng Firyuza, nhường một làng khác cho các ông?

Họ đồng ý, ký một hiệp ước, và bây giờ không còn cãi nhau nữa. Với láng giềng không còn vấn đề gì tranh cãi về biên giới nữa, trừ Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc đòi hỏi cái gì?

Bắc Kinh nói:

- Chúng tôi yêu cầu ký một hiệp định về biên giới, những đường biên giới trước đây được hình thành trước đây tại thời điểm có hiệp ước không bình đẳng ký với Sa hoàng.

Chẳng có một người thông minh nào ký cả. Hiệp ước không bình đẳng nghĩa là gì? Nếu tôi ký theo lời của họ, thì tiếp theo cũng phải từ bỏ những cái gì mà chúng tôi làm chủ trên cơ sở những hiệp ước tương tự. Nhưng tất cả các nước xã hội chủ nghĩa chấp nhận biên giới của mình từ thời Sa hoàng, đế quốc và Nữ hoàng xa xưa. Nếu từ quan điểm này chúng tôi có thể tạo ra mối quan hệ tương hỗ của mình và điều này sẽ đi xa hơn nữa! Nói chung trong vấn đề biên giới tồn tại nhiều khía cạnh có thể lý giải một cách khác nhau, đặc biệt ở châu Âu. Chúng tôi không có biên giới với Hungary, không có tranh cãi về biên giới nhưng ở vùng Zakarpat sống 120 nghìn người Hung. Janos Cadar không tham vọng vùng đất này. Vì sao? Người Hung có thời lợi dụng Zakarpat (Ukraina) gia nhập đế quốc Áo-Hung, và đẩy người Ukraina kên núi, chiếm vùng đất phì nhiêu Tise. Nếu bây giờ đòi Cadrar vùng đất này?

Tuy nhiên Hungary và Nam Tư có cãi nhau lớn về biên giới. Tại Nam Tư có hai triệu người Hung sinh sống. Hung và Rumani cãi nhau về vùng Transivania. Người Rumani sùi bọt mép chứng minh rằng đây là tỉnh xa xưa của Rumani, còn người Hung nói rằng Transivania luôn luôn là của Hung, ở đó có văn hoá Hungary và tiếng Hung. Người Rumani đảo ngược lại tất cả từ trên xuống dưới, làm cỏ sạch tất cả người Hung. Tranh cãi to về biên giới giữa Albania và Nam Tư. Tôi nghĩ rằng người Albania sống ở Nam Tư nhiều hơn tại chính Albania, nhưng Enver Hodga rất sợ Nam Tư. Nhưng những người Albania sinh sống ở Nam Tư, xem mình hoàn toàn không phải là người Albania và họ không về Albania. Ở Nam Tư о sống tốt hơn. Đúng là Tito làm chính trị thông minh hơn.

Hodga - đây là một tên kẻ cướp thực thụ. Chẳng có lẽ đây là chính khách? Ông ta có một phương pháp: tròng thòng lọng vào cổ và treo lên. Chính sách điển hình của Stalin. Hodga có những sát thủ bí mật, đâm những người đối lập: lùng họ trên đường và đâm. Hoặc đột nhập vào nhà và đâm. Còn Mehmet Sehu? Mehmet Sehu trước kia là Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng, một công nhân, người rất thông minh. Ông là người sáng lập Đảng cộng sản Albania, còn Hodga đích thân bóp cổ Sehu. Vì sao? Sehu có quan điểm xây dựng liên minh Albania với Nam Tư. Đó là ý tưởng của Stalin. Trong thời kỳ nào đấy, có thể, đây là khôn ngoan, hợp lý, sau đó - thì không phải. Nhưng nếu điều này làm phật ý ai đó, sao lại bóp cổ người ta?

Ngoài biên giới, còn phát sinh nhiều vấn đề khác. Chủ nghĩa xã hội là gì, có phải giữ con người trong vòng không? Đội ngũ công minh là thế nào? Thiên đường là gì? Tất cả mọi người đều muốn rơi vào thiên đường. Đấy không phải là thiên đường, vì người ta muốn chạy khỏi thiên đường mà cửa thì sập lại. Nếu Thượng đế cho tôi tiếp tục hoạt động, có lẽ tôi mở cửa, mở toang cả cửa ra vào, cả cửa sổ. Và tất cả bỗng nhiên chạy đi Lenin từng mở biên giới Liên Xô sau nội chiến. Một số bỏ đi. Saliapin, Andreev, Kuprin, những người nổi tiếng khác. Nhưng sau này có người quay về, người khác lâu lâu xin quay lại. Chẳng có lẽ có thể tất cả nhân dân bỏ đi? Có bao nhiêu người nước ngoài chạy sang chúng ta và không quay về nước mình… Vì sao chúng tôi phải sợ điều này?

Ở Ba Lan ai thích đi, cứ đi. Và sao? Nhiều người sau đó quay về. Đại sứ chúng ta, gửi bức điện từ Israel nói rằng một số người bỏ Liên Xô đến Israel, đã yêu cầu dứt khoát quay về. Tôi có một phụ nữ quen (bà là người bất hạnh, bản thân bà hai lần ngồi tù thời Stalin, chồng bị bắn, em bị bắn và em rể bị bắn, trong chiến tranh, quân Đức thiêu bố mẹ bà, còn cái gì có thể tệ hơn?), và bà kể cho tôi một người họ hàng ruột thịt của bà sang Israel, khách mời, nhìn thấy ở đó người ta sống như thế nào và nói rằng nói chung người Do Thái sống không tồi, nhưng những người già hình thành cá tính dưới chính quyền Xô viết, cũng buồn. Bà cũng muốn quay về, nhưng những vẫn còn sống chẳng để làm gì. Thanh niên, thật ra, không không muốn quay lại. Vì lẽ gì? Giải thích:

- Chúng tôi đã chán ngấy nghe người ta gọi tôi là bọn ăn bám.

Nói chung chúng tôi khó đặt quan hệ với Israel. Israelе tiến hành nhiều vách để cải thiện mối quan hệ này, nhưng chúng tôi không thể đi đến dùng vì tình hữu nghị với thế giới Ả-rập. Bao nhiêu lần, đại sứ Israel đề nghị tôi tiếp. Bản thân tôi cũng muốn tiếp ông, nhưng tôi không thể làm vì làm những người Ẩ rập nổi khùng. Khi Israel đóng vai trò gián điệp của đế quốc Mỹ ở Trung Đông, chúng tôi không muốn những người Ả rập xa rời chúng tôi, mà muốn lôi kéo họ, và thế là phải giữ một khoảng cách với Israel. Nếu xem xét bộ mặt chính trị của Israel, thì hộ không những không tồi, mà thậm chí còn tốt hơn những nước tư bản chủ nghĩa khác, và với Israel có thể dàn xếp những quan hệ bình thường. Ở Israel, nông nghiệp được tập thể hoá không kém gì Ba Lan. Ở Ba Lan cũng không có nông trang, chỉ xây dựng tổ đổi công như cấp đầu tiên của tập thể hoá nông nghiệp. Đất đai ở Ba Lan thuộc về tư nhân, còn thu nhập trong tổ đổi công phụ thuộc vào lượng đất đóng góp.

Tôi không bao giờ là người bài Do Thái. Tôi từng sống ở Yuzovk, và làm việc cùng với những người Do Thái. Tôi cũng có nhiều bạn người Do Thái. Từ hồi còn trẻ con, tôi làm việc ở nhà máy với một người Do Thái, Yakov Issakovich Kutikov - một người tốt. Ông là thợ nguội và nhận 2 rúp một ngàyь, nhưng tôi nhận cao hơn và giúp đỡ ông 25 cô pếch một ngày. Những kẻ đểu giả ở đâu đâu cũng có - cả người Nga, cả người Do Thái, và người nào cũng được. Thậm chí không có cái gì có thể so sánh Ả rập và Israel, ở Israel người ta sống giàu hơn. Trong nông nghiệp đã có hệ thống thuỷ nông tự hành - một phương pháp tiến bộ nhất đối với cây trồng. Mối quan hệ tương hỗ của Israel với thế giới Ả rập rất nặng nề. Nếu như cứ tiếp tục, thì kết thúc xấu cho Israel. Israel luôn lo ngại các nước Ả rập. Nhưng thực lực thì hai bên ngang nhau. Cuộc chiến tranh sáu ngày, năm 1967 cần phải dạy cho những người Ả rập một bài học. Tôi nhớ Petro I. Khi quân Thuỵ Điểm đánh tập hậu ông ở Narva, ông hiểu: cám ơn bài học, sau đó ông đánh tan quân Thuỵ Điển ở Poltava. Thời gian sẽ trôi đi, và nếu người Israel không chịu hiểu, thì người Ẩ rập sẽ đánh tan họ.

Vả lại, nếu anh ai tổ chức công việc tốt thì không sợ ai, mà người khác sợ anh. 2,5 triệu người Do Thái tổ chức như thế này để trong sáu ngày đánh tan hàng chục triệu người ở Ai Cập, Syri, và các nước đồng minh. Chỉ huy quân sự của Israel là Daian từng là sĩ quan quân đội Anh. Nhưng ở đó còn bao nhiêu người, từng phục vụ trong quân đội chúng tôi? Đó cũng là một lực lượng của họ. Người Ả rập đặc biệt không biết đánh nhau, chỉ cưỡi lạc đà, còn người Do Thái chiến đấu khắp các cuộc во всех chiến tranh. Israel xuất hiện như thế nào? Đây là ý tưởng của những người Sionit. Hai năm trước đó, có một người già, thành lập đảng Sionit. Nước Anh kiểm soát Trung Đông, đồng ý chia một vùng cho Israel, bằng cách cắt đất của những người Ả rập. Chúng tôi lúc đó thời gian không biểu quyết vấn đề này ở Liên Hiệp Quốc, còn sau đó cũng cho chỉ thị đồng ý thành lập Israel. Bây giờ thủ tướng Israel là Golda Mayer. Bà là đại sứ đầu tiên của Israel tại Liên Xô. Bà sinh ra ở Odessa, lúc bà sáu tuổi, bố mẹ đưa bà sang Mỹ. Bà biết tiếng Nga giỏi. Khi bà đến Nga, thì phát triển mạnh những hoạt động của những người Do Thái xô viết, và Stalin đuổi bà đi. Lúc đó những quan hệ của chúng tôi cũng xấu đi.
Về Albania



Tôi muốn bây giờ được dừng lại ở những quan hệ với Chính phủ Albania và với Đảng lao động Albania. Trong thời kỳ Stalin, chúng tôi không có sự va chạm nào trong những quan hệ giữa Liên Xô và Albania, giữa Đảng cộng sản chúng tôi và Đảng lao động Albania. Họ đáng ra phải là ở giữa các nước xã hội chủ nghĩa. Liên Xô làm tất cả để giúp đỡ Nhà nước Albania mạnh lên sau thất bại Hittler đạo quân lớn và đuổi quân đội Ý ra khỏi lãnh thổ của họ. Nhân dân Albania thống nhất thời ấy sức mạnh của mình với Nam Tư, và họ tiến hành cuộc đấu tranh cùng nhau chống kẻ thù chung - Đức Hittler và phát xít Italy. Như đồng chí Tito kể cho tôi, Đảng cộng sản Nam Tư có sự giúp đỡ lớn lao cho nhân dân Albaniу trong việc tổ chức đấu tranh chống phát xít. Điều này là đương nhiên, vì rằng Đảng cộng sản Nam Tư được tổ chức tốt hơn và giàu truyền thống cách mạng hơn. Đảng cộng sản Albania, như thời ấy gọi nó, là yếu và cần giúp đỡ, mà Các đồng chí Nam Tư có được cho họ. Tito kể, ông cử bạn chiến đấu của mình Vukvanovich đến Albania, để tổ chức Đảng lao động.

Khi những quan hệ giữa Liên Xô và Nam Tư tốt nhất, Tito được Stalin tin cậy tuyệt đối, tôi nhớ, có mặt tôi, Stalin đọc (chính tả) một bức điện cho Tito, nội dung, tới đây mối quan hệ tương hỗ với Albania cần xuất phát từ việc Albania sẽ tham gia Liên bang Balkan. Bức điện như thế được gửi đi. Tất nhiên Albania không biết điều này. Stalin ấp ủ ý tưởng xây dựng Liên bang Balkan và thường phát biểu chủ đề này ở một số hẹp người quanh ông. Đối với Chính phủ tương lai Liên bang Balkan thậm chí người ta bắt đầu xây dựng một cung điện gần Belgrad. Khi tôi ở Nam Tư, tôi đã thấy chỗ này. Người ta chở đến đó khá nhiều bê tông sắt, nhưng sau này lại bỏ đi tất cả. Ghép Albania vào nhà nước Nam Tư không đi ngược ý tưởng của Stalin về xây dựng Liên bang các nước Balkan. Khi cắt đứt mối quan hệ hữu nghị với Nam Tư thì Stalin căm ghét Tito, ý tưởng Liên bang Balkan bị chôn vùi.

Tôi không biết hết nguyên nhân làm xấu mối quan hệ giữa Nam Tư và Liên Xô, nhưng một cái gì đó tôi biết. Stalin gửi chúng tôi một số bức điện, do đại sứ xô viết ở Nam Tư gửi về. Trong những bức điện này, đại sứ chúng tôi vạch ra những hoạt động Tito dưới ánh sáng dân tộc chủ nghĩa và làm tất cả để cho thấy rằng đây không phải hữu nghị của nước, mà Đảng cộng sản Nam Tư dưới sự lãnh đạo Tito tiến hành công việc phá hoại chống Đảng cộng sản Liên Xô. Trong đó cụ thể đại sứ buộc tội Nam Tư, tôi bây giờ tôi không nhớ. Lúc đó tôi làm việc tại Ukraina và ít tham gia các quốc tế vấn đề, vì rằng tôi dường như bị cách ly trong những vấn đề này và không nhận được các tài liệu tương ứng. Mặc dù tôi là uỷ viên Bộ chính trị Đảng cộng sản toàn Nga (b), những tài liệu, lẽ ra phải gửi cho tôi, lại không đến. Lúc ấy Stalin thống trị. Ông nói gửi- tất cả được gửi, còn nếu không nói, thì không gửi một cái gì cho ai cả.

Sau khi Stalin qua đời, chúng tôi vẫn phải thừa kế những quan hệ xấu với Nam Tư. Chúng tôi nghĩ vấn đề này giải quyết như thế nào. Trong vấn đề này chính tôi nảy ra sáng kiến. Vì sao? Tôi luôn luôn phấn khích bởi những hoạt động của du kích Nam Tư. Du kích Nam Tư trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa phát xít tự thể hiện mình liệu có phải không, không tốt hơn những người khác. Điều này được nhiều người biết và được nhiều người công nhận. Họ xây dựng quân đội, có sự chỉ huy từ trung tâm của mình và tiến hành cuộc đấu tranh thành công với Đức, giải phóng khá nhiều lãnh thổ, trên đó khu du kích được thành lập. Ngoài ra, từ trước chiến tranh tôi đã nghe về hoạt động của Tito. Đó là một người cộng sản, rất nổi tiếng trong Quốc tế cộng sản. Khi là cựu binh của quân đội Áo-Hung ông làm tù binh của Nga và trải qua trường học đầu tiên của mình trong thời gian cách mạng tháng Mười. Khi theo dõi điều này tôi có sự thiện cảm với ông, mặc dù cá nhân tôi gặp ông rất ít.

Một hôm tôi đến gặp Stalin, Stalin nói rằng Đoàn đại biểu Nam Tư sẽ đến. Stalin nói điều này với thiện cảm và với sự vui mừng mong đợi: “Họ sẽ đến đấy!”. Nhưng tôi không chờ Đoàn đại biểu này tới và quay về Kiev. Sau đó Stalin gọi tôi và nói rằng Tito sẽ quay về nước qua Kiev, và đề nghị:

- Anh ở đó tiếp Tito và các đồng chí khác. Họ là những người bạn tốt.

Tôi đã làm như thế. Tito, Kardele, Ginlas và những người khác đến Ukraina. Chúng tôi đã làm tất cả những gì cần thiết: giới thiệu cho họ thành phố, pháo đài, đến nông trang, xem hát, tiến hành những cuộc trao đổi. Chúng tôi nói chuyện, tất nhiên về cuộc sống Ukraina, về hoạt động Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản(b) Ukraina, còn những vấn đề khác chúng tôi không đụng chạm.

Thời ấy, chúng tôi sống với lý tưởng khi hình thành một nước xã hội chủ nghĩa mới, đồng thời cần hình thành sự lãnh đạo nào đấy của họ không những về những vấn đề chính trị Đảng mà còn về những vấn đề kinh tế: một điều gì đó tựa như Uỷ ban quốc tế đại biểu công nhân toàn thế giới của những nước cộng hoà như thế. Tất cả chúng tôi được nuôi dưỡng với lý tưởng này. Chúng tôi với tình yêu như thế và sự tin cậy cùng với mọi người và Đảng cộng sản của họ trên con đường xây dựng CNXH. Chúng tôi đã làm cho mọi người và cho bản thân, khi cho là sự liên kết tất cả các cán bộ Đảng, khoa học, vật chất kỹ thuật của chúng tôi tập trung sức của mình trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản thế giới. Tôi cho rằng đây là là một bằng chứng trong lòng tốt mọi người, đứng trên vị trí cộng sản.

Khi xảy ra sự đổ vỡ, tất cả lập tức thay đổi hẳn. Stalin suýt nữa tấn công Nam Tư. Tôi nhớ, một lần người ta yêu cầu tôi tiến hành bí mật đưa người từ Odessa vào Balkan. Chúng tôi đã gửi bằng tầu thuỷ, có lẽ, đến Bulgary. Những người tổ chức việc này báo cáo tôi, có một binh đoàn đã được hình thành, và mặc dù những người này mặc áo dân sự, nhưng trong valy của họ có quân phục và vũ khí. Người ta nói với tôi, rằng chuẩn bị giáng một đòn nào đó khắp Nam Tư. Vì sao Stalin không làm, tôi không thể nói được. Nói chung tôi không nghe từ chính miệng Stalin nói về điều này, nhưng những người thực hiện chiến dịch này báo cáo tôi, họ là những người tổ chức gửi người đi và đưa họ lên tầu thuỷ. Tâm trạng của họ là tâm trạng của những người xâm lược:

- Đưa cho họ người của chúng ta!

Thế là họ được gửi đi và chẳng bao lâu bắt đầu thấy hiệu ứng. Trong các lời nói, họ không hề có sự hối tiếc về sự việc xảy ra.

Vì sao tôi bây giờ chú ý đến Nam Tư, mặc dù đang nói về Albania? Vì rằng những vấn đề này có liên quan qua lại với nhau. Vì sao chính tôi thể hiện sự quan tâm cải thiện mối quan hệ với Nam Tư, mà không phải ai khác? Việc này cần phải rõ ràng cho nhân loại, ít nhiều suy nghĩ về chính trị và hiểu biết thời gian lúc ấy. Khi chúng tôi có quan hệ xấu với Nam Tư, tôi ở Ukraina và, mặc dù nằm trong chóp bu lãnh đạo Đảng cộng sản Liên Xô, nhưng không tham gia việc vị Nam Tư “xấu xa” này.

Khởi xướng cuộc này liệu có phải là Molotov, Suslov, Vorosilov và những người khác? Trong thời gian ấy, họ khá gần gũi với Stalin. Tôi đã nói ở đây không chỉ những người gần Stalin, mà còn cả bao nhiêu người xung quanh Stalin: mọi chính sách chống Nam Tư, do Stalin chỉ huy, đều qua tay họ, và họ là những người trực tiếp thi hành nó, đặc biệt Molotov. Molotov trong vấn đề này là cánh tay phải của Stalin.

Những người này học ở Stalin ý nghĩ từ vị thế chủ nghĩa sô vanh nước lớn và áp dụng chuẩn mực này cho tất cả các Đảng cộng sản, trong số này, tất nhiên, có cả Nam Tư. Vì thế họ không hiểu sự cần thiết phải cải thiện mối quan hệ của chúng tôi và loại bỏ xung đột với Nam Tư, nói chung họ không muốn hiểu vấn đề này. Khi tôi đặt vấn đề đó, có sự hiểu biết và ủng hộ hơn nữa từ phía Anastas Ivanovich Mikoyan. Ông cho rằng phải thực hiện những bước như thế. Molotov, Vorosilov, Suslov không đồng ý với tôi. Mây mù che khuất mắt họ: Chúng ta là nước lớn như thế, thắng Đức Hittler, rồi đi đến Nam Tư?

Trước đó chính họ là những kẻ dối trá, nói dối một lần và nhiều lần, bằng cách sau đó lặp đi lặp lại sự dối trá của họ, bắt đầu tin vào chuyện bịa đặt rằng Nam Tư là nước tư bản chủ nghĩa, không còn tý gì xã hội chủ nghĩa; rằng Nam Tư trở thành phản bội CNXH và liên kết với chủ nghĩa đế quốc. Rất thú vị rằng bây giờ Trung Quốc cũng sử dụng luận điệu này phê bình nước chúng tôi. Ở Bắc Kinh người ta tuyên bố rằng Liên Xô ký một liên minh bí mật với đế quốc Mỹ, và đó là sự ngu ngốc. Đáng tiếc, điều tương tự này, hai mươi năm trước trước đây chúng tôi đã nói về Nam Tư. Tất cả điều này đều do Stalin nghĩ ra, còn các nhà báo chộp lấy. Nhiều giấy mực đổ xuống sông xuống biển. Gánh nặng quá khứ đổ vào tất cả chúng tôi, và không dễ dang như thế thời ấy lập tức có một bước đi mới.

Vì vậy tôi đề nghị:

- Các đồng chí, chúng ta hãy xây dựng một Uỷ ban gồm các nhà khoa học và trao cho họ nghiên cứu, bây giờ Nam Tư là quốc gia kiểu gì - tư bản chủ nghĩa hoặc xã hội chủ nghĩa? Nếu là nước tư bản chủ nghĩa, thì yếu tố nào chứng tỏ họ không phải nước xã hội chủ nghĩa?

Tôi không còn nhớ ai tham gia Uỷ ban này, nhưng tôi nhớ rõ trong đó có Sepilov - chủ bút báo “Sự Thật”. Uỷ ban này lẽ ra phải công nhận rằng Nam Tư chẳng thể nào được coi là nước tư bản chủ nghĩa, rằng trong sự xây dựng nước này có mặt tất cả các yếu tố của nề nếp xã hội chủ nghĩa: không có sở hữu cá nhân về phương tiện sản xuất, không có sở hữu riêng về ngân hàng, tất cả những thứ này thuộc về nhân dân. Buôn bán chủ yếu cũng nằm trong tay nhà nước. Không xác định được chỉ có vấn đề nông nghiệp nông trang hầu như không có và phổ biến là kinh tế cá thể. Tuy nhiên hình thái như thế cũng có ở các nước khác, đang trên đường xây dựng CNXH, như thế Nam Tư về mặt này không hề tách rời trong số các nước như Rumani. Hungary, Bulgary, Tiệp Khắc, Ba Lan. Tôi quả là chưa nói về CHDC Đức.

Trong số tất cả các nước trên con đường xây dựng CNXH, thì Albania tiến hành chính sách chống Nam Tư mãnh liệt nhất. Trong thời kỳ đáng nhớ ấy, điều này được Liên Xô thích thú và cổ vũ. Nhưng khi chúng tôi quyết định phải thực hiện những bước bình thường hoá mối quan hệ Liên Xô - Nam Tư, để đặt con đường đầu tiên đi tới đoàn kết, tới sự vững mạnh của lực lượng cách mạng, thái độ của Albania đã làm hỏng việc của chúng tôi.

Trước khi thực hiện những bước đi cụ thể bình thường hoá mối quan hệ Liên Xô-Nam Tư, chúng tôi thảo luận các Đảng cộng sản anh em. Tôi không nhớ bây giờ, ai phản đối, nhưng đa số đồng ý với chúng tôi. Nhưng chúng tôi rất kiên trì cố đạt được điều này. Albania không đồng ý. Những người lãnh đạo Đảng và nhà nước rất khó đồng tình với những đề nghị của chúng tôi chứng minh rằng những người Nam Tư - là những người không tin cậy, rằng họ không phải là những người cộng sản. tất cả điều này được phát biểu với giọng độc ác. Đặc biệt Enver Hodga rất hay tức giận. Tính ông này rất ác, và, khi ông nói về cái gì mà ông không thích, thì mặt ông co giật và nghiến răng kèn kẹt.

Chúng tôi bình tĩnh chứng minh rằng phải có quan niệm và sự sáng suốt để phân tích lại những mối quan hệ quốc tế: sự bình thường hoá sẽ có lợi cho cả Albania, cho cả Nam Tư, và phong trào cộng sản thế giới. Chia rẽ vì cái gì? Phải thấy rằng ở có nhiều người Albania sống ở Nam Tư, và mặc dù các nước xã hội chủ nghĩa đã bóp méo số liệu thống kê, khi đó điều này là có lợi, nhưng Tito sau này nói với tôi, rằng ở Nam Tư người Albania nhiều hơn số người Albania ở tại nước họ. Tôi cho là điều này không có gì xấu cả, đặc biệt, cũng không thấy, tình anh em giữa các quốc gia. Albania buộc phải đồng ý với chúng tôi, nhưng không phải vì chúng tôi tin họ, vì rằng họ không có lối thoát khác.

Đoàn đại biểu Liên Xô đến Nam Tư (tôi sẽ nói riêng), và chúng tôi bình thường hoá quan hệ. Sự thật cả sau khi bình thường hoá những mối quan hệ cũng không phải bằng phẳng: có sự bá vai choàng cổ, và cũng có cả những lạnh nhạt. Nhưng trong mọi trường hợp cái gì xảy ra ở thời Stalin, sẽ không lặp lại nữa. Chúng tôi tiến tới thắt chặt mối quan hệ tốt đẹp và đã làm những bước đi tạo điều kiện thống nhất lực lượng chúng tôi cả trong chính sách cũng như trong kinh tế. Điều này gây ra sự bất lợi lớn ở Albania. Trong thời gian ấy, chúng tôi đi đến vấn đề dường như từ vị trí một đồng chí cũ: làm gì, nếu họ không hiểu? Họ đang trưởng thành, không có gì băn khoăn ở đây, nói riêng, không có. Và chúng tôi giải thích vị trí chúng tôi để những người Albania hiểu chúng tôi tốt hơn.

Từ phía Albania, chúng tôi đã xây dựng những mối quan hệ anh em không đơn giản. Chính những mối quan hệ anh em - đó là những quan hệ bình đẳng. Nhưng ở đây, với quan điểm sự giúp đỡ phát sinh những quan hệ cũ đối với mới. Chúng tôi tiêu rất nhiều phương tiện, tiền bạc để giúp đỡ Albania. Với các nước khác, chúng tôi có sự giúp đỡ bằng tín dụng ưu đãi, còn Albania, chúng tôi trên cơ sở khác, chủ yếu là tặng không. Chúng tôi nói chung hoàn toàn nhận trách nhiệm trang bị cho quân đội Albania: cung cấp cho họ quân phục, thực phẩm, đạn dược, vũ khí, và tất cả là không phải hoàn lại.

Vì sao? Có lý do của nó, và bất kỳ ai đầu óc sáng suốt, sống trong bầu không khí mà chúng tôi thời ấy đã sống, hiểu và tìm thấy sự đúng đắn hành động như thế của chúng tôi. Phải thấy rằng trong thời gian ấy, NATO hình thành. Nhưng Albania có một vị trí chiến lược ở Địa Trung Hải, và chúng tôi xem nó như một căn cứ của các nước xã hội chủ nghĩa ở biển này. Vì thế tình thế nước đôi đặt ra: liệu chúng tôi có mặt ở đó, nói một cách thô thiển, quân đội của mình hoặc xây dựng cho Albania quân đội riêng của mình? Đương nhiên, Albania có thể duy trì một lượng quân không nhiều và họ không gây một ấn tượng nào cả đối với kẻ địch. Họ thực tế không sản xuất vũ khí, có lẽ chỉ có súng trường. Vì thế chúng tôi quyết định giúp đỡ về mặt vật chất để xây dựng theo khả năng quân đội Albania đông người, nhưng, tất nhiên, không đến nỗi điều này làm khổ nền kinh tế Albania. Điều này cần thiết là quân đội này phải gây một ấn tượng đe doạ, được trang bị phương tiện chiến đấu hiện đại. Vì thế quân đội Albania nhận tăng, pháo, súng mới. Đấy là chưa kể đồng phục và đồ ăn. Nếu Albania trích tiền từ ngân sách của mình để nuôi quân đội thì họ không còn đủ tiền làm những việc cần thiết khác: phát triển kinh tế, công nghiệp hoá đất nước, cải tổ xã hội chủ nghĩa. Và chúng tôi biết cần Albania.

Từ sau chiến tranh, mới đây mối quan hệ Liên Xô các nước tư bản chủ nghĩa bị nặng nề, chúng tôi không loại trừ khả năng xung đột quân sự. Với vị trí của mình, Albania đe doạ nghiêm túc những hoạt động của NATO ở Địa Trung Hải. Vì thế chúng tôi thoả thuận với Albania là chúng tôi kéo cả tàu ngầm đến. Chúng tôi đã làm thế vì lợi ích tất cả các nước xã hội chủ nghĩa.

Quyết định bố trí ở đó 12 tầu ngầm. Các bạn có biết một quả đấm tương đối mạnh - 12 tầu ngầm ở Địa Trung Hải. Với những quả đấm như thế, đối thủ của chúng tôi bắt buộc phải coi trọng. Những tàu ngầm này chúng tôi cũng muốn chuyển cho Albania. Thuỷ thủ chúng tôi đến Albania với đày đủ phương tiện trên biển và sửa chữa, để đào tạo và xây dựng đội ngũ sĩ quan Albania chỉ huy tầu ngầm. Chuyển cho họ những tàu ngầm này, bước đi này chứng minh chúng tôi tin họ như thế và, tôi đã nói, với tình yêu như thế chúng tôi đối với người bạn Albania. Đoàn đại biểu Albania đến gặp chúng tôi đôi lần đứng đầu là Enver Hodga và Mehmet Sehu. Giữa chúng tôi có những quan hệ tốt nhất, chưa kể tới nhân dân Albania.

Những người Albania nhiều lần đề nghị chúng tôi mời Đoàn đại biểu cấp cao Đảng và Chính phủ chúng tôi tới thăm họ. Người ta quyết định rằng tôi đứng đầu Đoàn đại biểu như thế. Và chúng tôi đến Albania. Trước khi đi, chúng tôi báo cho những người bạn Albania rằng chúng tôi không muốn khi chúng tôi có mặt, không tiến hành công khai chỉ trích Nam Tư và những người lãnh đạo của họ. Trong thời gian ấy, Albania giữ những quan hệ rất căng thẳngvới Nam Tư và tiến hành một cuộc đấu súng bằng lời trên báo chí. Tôi cho rằng điều này mang đến sự thiệt hại. Vì thế chúng tôi tư vấn với nhau và nói với Enver Hodga rằng chúng tôi không muốn trong thời gian có mặt Đoàn đại biểu ở Albania tiếp tục cuộc cãi nhau này trên báo chí giữa Albania và Nam Tư. Chúng tôi báo trước rằng họ đừng lôi kéo chúng tôi vào cuộc thảo luận như thế và ở mít tinh. Chúng tôi nói chung không muốn rằng trong các cuộc mit tinh các đồng chí Albania đưa vấn đề này và chính họ đã buộc chúng tôi có lần phản ứng. Đương nhiên, chúng tôi không thể ủng hộ cuộc đấu khẩu như vậy, vâng, lại còn ở cấp cao đại diện hai nước. Điều này chẳng thể nào phục vụ những bước cải thiện mối quan hệ của chúng tôi với Nam Tư và có thể lĩnh hội được thông báo một cuộc chiến tranh về mặt tư tưởng và chính trị giữa nhân dân chúng ta, giữa các quốc gia chúng ta. Chúng tôi không muốn điều này và đề nghị Albania tính đến nguyện vọng chúng tôi.

Trong thời gian chúng tôi ở thăm, trong các cuộc mit tinh và những cuộc họp khác, Albania ngừng phê bình Nam Tư. Nhưng dễ nhận thấy rằng đối với họ là khó đạt được. Trong các cuộc nói chuyện cởi mở, Albania thuyết phục chúng tôi rằng không thể hoà giải với Nam Tư, rằng những người Nam Tư không phải là những người cộng sản, v.v… Chúng tôi không thể đồng ý với họ, mặc dù cũng không phải ủng hộ tất cả những gì đang tiến hành ở Nam Tư. Chúng tôi thậm chí phát biểu ý kiến như thế công khai, nhưng chỉ trong nước, và không muốn làm điều này ở Albania. Chúng tôi hoàn toàn không thể, chúng tôi nói chung không thể, đồng ý rằng những người lãnh đạo Nam Tư không phải những người cộng sản, rằng Nam Tư không phải nước xã hội chủ nghĩa. Đó là một giai đoạn phải đi qua theo thế giới quan chúng tôi. Về những vấn đề cụ thể, chúng tôi còn trao đổi, đôi lúc chửi mắng nhau, nhưng chúng tôi cho rằng về cơ bản, họ - những người cộng sản, mặc dù và họ diễn giải tình hình thực tiễn và lý lý thuyết theo cách của mình.

Trong thời gian chúng tôi ở Albania những người Albania xem chúng tôi như những người bạn, và giữa chúng tôi không phát sinh mắc míu gì cả. Về Nam Tư, trong các cuộc mit tinh, họ không nói gì cả, như thế, không đặt chúng tôi vào tình thế của người hoặc là phải phớt lờ, hoặc là phải tham gia cùng với họ cãi nhau. Nhưng chúng tôi không muốn điều này điều khác. Chúng tôi ở đó một số ngày, thăm thủ đô Tirana và các thành phố khác, thăm làng mạc, cảng… Mọi nơi mọi chốn chúng tôi gặp quan hệ vui mừng không tưởng tượng đượcđối với Liên Xô, với nhân dân Liên Xô, với Đảng chúng tôi từ phía Đảng lao động Albania, cũng như từ phía Hodga và Sehu. Tôi không thấy một đám mây đen đe doạ hoặc, như người Ukraina thường nói, không có những bóng mây che phủ mặt trời tình hữu nghị, mà chúng tôi muốn được thưởng thức cuộc sống và xây dựng quan hệ anh em tiếp tục giữa Liên Xô và Albania. Giữa chúng tôi không phát sinh mâu thuẫn.

Chúng tôi không có tham vọng: Albania rất nghèo, và họ không có một thứ gì mà chúng tôi có thể quan tâm theo nghĩa tài nguyên. Những quan hệ kinh tế của chúng tôi chỉ vì lợi ích Albania. Thậm chí một lượng nhỏ nhoi dầu mỏ, mà Albania khai thác cũng nhờ chúng tôi, chúng tôi cũng không mua của họ. Dầu mỏ của họ chất lượng thấp đến nỗi không thể đem ra thị trường tư bản chủ nghĩa, và chúng tôi bắt buộc nhận số dầu mỏ này trừ vào khoản nợ và suy nghĩ rằng sẽ dùng nó như thế nào trong nền kinh tế chúng tôi. Chúng tôi đã làm điều này, vì lẽ nếu chúng tôi không nhận nó, thì không ai mua nó cả. Rồi cũng từ bỏ khai thác dầu mỏ ở Albania. Sau đó chúng tôi cho Albania máy kéo. Lãnh thổ của họ nhỏ, đất cày không nhiều. Nhưng chúng tôi muốn giúp đỡ xây dựng kinh tế Albania ở mức hiện đại, làm Albania như viên ngọc trai, để lôi kéo thế giới đạo Hồi về nó, đặc biệt Trung Đông và châu Phi, đi theo chủ nghĩa cộng sản. Thế là chúng tôi tiến hành ở đó những biện pháp như thế, chính sách như thế.

Chúng tôi đề nghị Albania xây dựng đài phát thanh mạnh để tuyên truyền. Chúng tôi muốn dùng đài phát thanh vào mục đích tuyên truyền lý tưởng chúng tôi, chính sách chúng tôi, chính sách của tất cả Đảng cộng sản, mục đích chung của chúng tôi trong cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chúng tôi cũng xây dựng một cảng biển lớn ở Albania. Tóm lại, chúng tôi cung cấp cho họ tất cả những gì mà Albania cần, và người ta đã làm tất cả để Albania trở thành một đồng minh vững chắc tình hữu nghị xã hội chủ nghĩa, để Albania trở thành một tấm gương sáng cho các nước giải phóng khỏi ách thực dân, và biểu thị ưu thế của phe xã hội chủ nghĩa.

Những cuộc nói chuyện với lãnh đạo tiến hành trong bầu không khí hữu nghị. Tôi quả là chưa nói về những cuộc gặp với nhân dân. Nhân dân bày tỏ tình cảm to lớn tình hữu nghị và sự giúp đỡ lòng biết ơn Đoàn đại biểu chúng tôi và qua chúng tôi tới Liên Xô, tới chính sách chúng tôi. Nhân dân đánh giá đúng sự giúp đỡ của chúng tôi, còn sự giúp đỡ này nhận thấy ở mọi nơi và mọi chỗ. Tất cả những cái mới được làm, đều với sự giúp đỡ của chúng tôi, từ tín dụng của chúng tôi, bởi những nhà chuyên môn và công nhân. Điều này tất cả thấy rõ, và nhân dân đánh giá rất cao sự giúp đỡ này và mối quan hệ hữu nghị đối với sự cần thiết của họ. Albania - một đất nước nhỏ. Nhưng một dân tộc nhỏ sống ở địa hình khó khăn, nơi có nhiều mâu thuẫn khác nhau của châu Âu, và những người bất đồng của nó cũng nhiều.

Trong các cuộc hội đàm, Albania thường đặt vấn đề về Hy Lạp. Giữa họ có những cuộc cãi nhau nào đấy về lãnh thổ, bây giờ tôi không nhớ. Nguyện vọng, luôn luôn có thể tìm khả năng duy trì những quan hệ với láng giềng trong tình trạng tranh cãi, vì rằng không có một biên giới có thẻ thoả mãn cho tất cả, và ai đấy luôn luôn có khả năng tham vọng với sự đúng của nó. Lãnh đạo phải tỉnh táo, phải kiểm tra nguyện vọng này, nén kìm chúng, xử lý nghiên túc và với sự hiểu biết đối với láng giềng của mình, tạo ra điều kiện sống trong tình hữu nghị và hoà bình với chúng. Điều này có thể chỉ khi có khát vọng qua lại. Nếu không có khát vọng qua lại và một nước thì muốn, còn nước kia không muốn điều này và không công nhận biên giới thực tại, thì dường như không muốn sống trong hoà bình và hữu nghị, đáng tiếc, điều này không nhận được.

Albania biên giới vẫn yên ổn. Biên giới Albania biên giới không gây ra một lo ngại gì với chúng tôi. Chúng tôi đã tin những người Nam Tư không có mưu đồ chống Albania. Tôi không biết, người Albania chừng mực nào chân thật. Nhưng tôi cảm thấy họ với sự hiểu biết liên quan đến vấn đề biên giới, mặc dù biên giới với Nam Tư họ không dàn xếp chúng. Trong các cuộc hội đàm họ đã nói rằng rất nhiều người Albania sống trên đất Nam Tư. Nhưng điều này giống như các chuyện cổ tích, không có mọi yêu sách và điều ám chỉ, bóng gió rằng họ một điều gì đó mưu đồ và muốn chúng tôi ủng hộ họ. đàm phán những người Albania không đặt ra những cuộc nói chuyện như thế và họ không thoả mãn. Họ cho rằng những người Albania ở Nam Tư chịu khổ sở, rằng người ta áp bức họ. Những vấn đề nội bộ này liên quan chỉ có Albania và Nam Tư. Những người Nam Tư cho rằng những người Albania ở Nam Tư được sử dụng tất cả mọi quyền lợi của nhân dân Nam Tư. Tôi nghĩ rằng nó là như thế.

Những tình tiết khác, liên quan đến biên giới. Tôi không nhớ, Bộ trưởng Bộ ngoại giao nào hoặc một nhà hoạt động xã hội Hy lạp đến Liên Xô. Tôi cũng tiếp ông. Những người Albania - rất đa nghi. Họ có ấn tượng, rằng chúng tôi với Hy lạp tiến hành các cuộc thương thuyết về sự thay đổi biên giới Hy Lạp-Albania có lợi cho Hy lạp. Tất nhiên Hy Lạp không đặt ra vấn đề như thế, và họ quả là khôn ngoan, hợp lý, vì rằng chúng tôi đứng ở phía bảo vệ quyền lợi Albania. Phải tự hình dung, dường như chúng tôi có thể tiến hành các cuộc thương thuyết nào đấy với Hy lạp, mà nó sẽ đem lại thiệt hại về lãnh thổ của Albania! Sự ngu ngốc, nông nổi thô thiển, kết quả của sự tưởng tượng bệnh hoạn! Nhưng, đáng tiếc, Albania phát biểu những ý nghĩ như thế cho một ai đấy trong số chúng tôi. Nhưng khi sau này giữa chúng tôi có căng thẳng về quan hệ, thì họ lại nói một cách chính thức và trực tiếp đã nói rằng chúng tôi thoả thuận với Hy lạp chiếm đoạt từ Albania một vùng đất nào đấy có lợi cho Hy lạp. Lời nói điên rồ! Chiếm đoạt như thế nào? Nếu thậm chí Hy Lạp phát biểu những yêu sách như thế và có sự đồng ý điên rồ nào đấy với họ, thì những vấn đề tương tự không được giải quyết mà không có chiến tranh. Nhưng ai sẽ chiến đấu? Chả lẽ chúng tôi vì Hy Lạp mà chiến đấu với Albania? Đơn giản chỉ là những lời mê sảng! Nhưng lời mê sảng này, đáng tiếc, người Albania phát biểu.

Tất nhiên trong thời gian chúng tôi ở thăm, những vấn đề này còn chưa phát sinh. Mọi thứ vẫn như trước. Tóm lại, cuộc đi thăm Đoàn đại biểu chúng tôi ở Albania là dễ chịu. Những cuộc nói chuyện, chúng tôi tiến hành, chỉ một việc hữu nghị, và chúng tôi về nước ở tâm trạng tốt và với suy nghĩ tốt về thành tựu của họ. Sự thành công của Albania còn thật sự lớn hơn. Chúng tôi vui mừng: một dân tộc nhỏ bé chấn chỉnh năng động nền kinh tế của mình, mặc dù liếc qua như nông dân Albania rất, rất nghèo. Sự nghèo khổ, hoang sơ bao trùm mọi nơi. Nhưng đó không phải là lỗi nhân dân Albania và Đảng lao động Albania. Như phức tạp lịch sử, và phải lao động nhiều loại bỏ nghèo khổ và nâng mức sống nhân dân nhân dân. Chúng tôi đứng ở vị trí này và có sự giúp đỡ mọi măth cho Albania.

Tại Đại hội 20 ĐCSLX, chúng tôi trình bày về sự quái gở, sự lạm quyền và những vụ hành quyết sai, do Stalin thực hiện Chúng tôi, đương nhiên, chân thật đứng về phía dân chủ hoá đời sống chúng tôi, mặc dù và không phải tất cả cùng như thế, như sau này sẽ giải thích. Một số người muốn quay ngược bánh xe lịch sử, cản trở việc phanh phui Stalin. Lúc ấy tôi nói với nhiều đồng chí, ở cùng trong một tập thể. Nhưng chúng tôi nắm con đường dân chủ hoá cuộc sống xã hội xã hội Liên Xô. Nhiều Đảng cộng sản khác bắt chước chúng tôi. Một ai đấy chân thành chia xẻ quan điểm chúng tôi, một cái gì đó không đồng ý dưới áp lực xã hội, như Đảng viên và những người ngoài Đảng. Quá trình dân chủ hoá cuộc sống xã hội đã đi.

Tất cả những vấn đề này được bàn cãi sôi nổi trong các hội nghị Đảng trong các nước Đông Âu. Ở Albania vấn đề đã chuyển hướng đặc biệt. Nhân viên Đại sứ quán chúng tôi ở Tirana kể cho tôi một hội nghị Đảng Tirana rất lạ lùng. Đây là một hội nghị kéo dài một số ngày, và Enver Hodga phải chịu đựng. Người ta phê bình ông và thậm chí nêu vấn đề thay Hodga, Sehu, Bekir Baluka, tất cả bộ ba này. Tôi không nhớ, ai bị phê bình trong số cán bộ Đảng ở Tirana. Nhưng tôi chú ý đến sự kiện này vì rằng Enver Hodga, hình như, có giá trị quyết định sự phát triển tiếp theo mối quan hệ giữa Đảng cộng sản Liên Xô và Đảng lao động Albania, giữa hai quốc gia.

Dù sao chăng nữa Hodga vẫn nhô lên. Ông, và Sehu, và Baluka còn nằm lại trong ban lãnh đạo. Nhưng biến cố này làm họ hoảng sợ khủng khiếp. Ngoài ra, họ nói chung, bị chấn động. Họ tự cho mình là lãnh tụ, tuyệt đối uy tín. Và như thế đây là những người cả gan cao giọng trong những người cốt cán và làm lung lay uy tín của họ? Và cũng không phải chỉ làm lung lay, mà đúng suýt nữa lật nhào vị trí lãnh đạo của họ. Khi Mao Trạch Đông tiến hành đường lối chính sách chống xô viết, nhằm cắt đứt với Đảng cộng sản Liên Xô, thì không phải, như người ta nói, là người thông minh mới hiểu rằng sự liên minh của Trung Quốc trong chính sách này là Albania. Mao mời Đoàn đại biểu Đảng lao động Albania sang Trung Quốc. Mehmet Sehu cầm đầu đoàn.

Trong thời gian ấy, chính chúng tôi phê bình Nam Tư, họ, dường như, người xét lại, xa dời học thuyết Mác-Lenin và v.v… Tôi bây giờ tôi không đi sâu xem xét vấn đề này, đối với tôi là giai đoạn đã qua. Sau đó giữa chúng tôi phát triển những những quan hệ khác nhau, xảy ra cả sự nhạy cảm. Trong toàn bộ quan hệ của chúng tôi với Nam Tư tình hữu nghị đã chiến thắng, và đến cuối đời mình tôi còn có những quan hệ tốt nhất với đồng chí Tito và các nhà hoạt động khác của Đảng cộng sản Nam Tư. Tôi kính trọng cao Tito. Nhưng người Trung Quốc quyết định sử dụng sự phê bình của chúng tôi đối với Nam Tư, còn sau đó sử dụng sự hoà giải, mà sự hoà giải này biến thành tình hữu nghị giữa các Đảng chúng ta và giữa lãnh đạo Liên Xô và Nam Tư. Người Trung Quốc khôn khéo ủng hộ Albania phê bình Nam Tư như là cuộc đấu tranh với những người xét lại, cuộc đấu tranh với Tito với tư cách người mang tất cả vi trùng chống chủ nghĩa cộng sản và chống xã hội chủ nghĩa, không thể là tình hữu nghị.

Những hạt giống này rơi xuống mảnh đất trồng đã chuẩn bị sẵn. Lúc ấy cũng không cần trợ sức đặc biệt từ Trung Quốc, vì rằng Albania tự mình tìm kiếm người ủng hộ họ. Trung Quốc - một đất nước rộng lớn, đông dân và nhiều người theo đạo Phật. người lãnh đạo Albania nhìn nhận Trung Quốc, như người ta nói, như những quân cờ trong tay, để phục thù. Tôi cho rằng họ là những người thiển cận và hạn chế. Vì thế họ xác định chính sách bằng số học. Không đòi hỏi kiến thức đặc biệt về toán, ­cũng đủ có đưa ra 4 phép tính số học, để xác định, bao nhiêu dân Trung Quốc và bao nhiêu dân các nước xã hội chủ nghĩa khác. Tất cả các nước xã hội chủ nghĩa không có tổng cộng bao nhiêu dân, một Trung Quốc. Tiếp theo, Trung Quốc là cái rốn của quả đất. Như thế, hình như Hodga và Sehu xác định đường lối của mình. Họ hoàn toàn liên kết với Trung Quốc trong cuộc đấu tranh chống Liên Xô, chống Đảng cộng sản Liên Xô.

Vì vậy tôi cũng lưu ý rằng một Đảng viên cốt cán Tirana, nơi quyết định số phận Hodga, phát biểu thời ấy chống Hodga. Những người cầm đầu Albania lĩnh hội chính sách chống xô viết do Mao cầm đầu. Không phải Mao ràng buộc họ, mà họ bản thân sẵn sàng tiếp nhận chính sách này không tồi hơn Trung Quốc, xuất phát từ tình hình nguy hiểm, phức tạp đối với họ sau Đại hội 20 ĐCSLX. Họ hiểu, trong đó đã kết luận bản chất sự kết án sùng bái cá nhân, sự kết án độc quyền, sự kết án tiêu chuẩn chống dân chủ trong cuộc sống và trong Đảng. Điều này làm chóp bu Albania lo sợ và không chỉ có họ.

Một số người khác cũng lo lắng: dân chủ, tất nhiên, tốt, nhưng trong điều kiện dân chủ, mà chính quyền, không nhòm ngó đến nhân dân và không lắng nghe nhưng mà anh ta lãnh đạo, là bài toán khó. Lúc ấy đòi hỏi thông minh hơn, đòi hỏi kỹ năng hiểu nhiệm vụ, đất nước đặt ra, kỹ năng nghe những những người mà anh lãnh đạo. Phải luôn luôn cảm thấy sự phụ thuộc của mình vào quần chúng: anh ở trong ban lãnh đạo, nhưng không phải vì rằng anh muốn lãnh đạo. Cần phải, để anh hiểu rằng anh có thể lãnh đạo chỉ có ở điều kiện, mà những người muốn điều này lại là người do anh lãnh đạo. Nhưng điều này có thể chỉ ở một điều kiện: người lãnh đạo sẽ là máu là thịt của nhân dân của mình, Đảng của mình, xuất phát từ quyền lợi nhân dân, một không phải là xu hướng cá nhân, ích kỷ, háo danh, làm chủ các kiến thức cần thiết, nhũn nhặn, tềnh toàng và có kỹ năng sống trong tập thể, tiến hành công việc, ứng với trách nhiệm và vị trí chính trị của mình, thì hãy vào Đảng. Anh không được đứng trên Đảng! Không, anh là nô bộc của Đảng và anh có thể nằm lại ở chức vụ này chừng nào Đảng ủng hộ anh, hài lòng bởi anh và những hoạt động của anh.

Những điều này không tương ứng với những hoạt động thực tiễn Hodga, Sehu và Baluka. Khi giữa chúng ta có những quan hệ đã căng thẳng và vượt quá thành thù địch, một số đồng chí Albania đến chỗ chúng tôi và rơi nước mắt, kể, tình hình phát sinh ở nước họ và к чему bây giờ họ gạt bỏ. Tito kể cho tôi, trước đây ông bí thư thứ nhất Đảng cộng sản Albania là một đồng chí rất tốt. Những người Nam Tư biết ông ta và ủng hộ. Bản thân ông xuất thân từ công nhân. Nói riêng, ông là nhà tổ chức Đảng cộng sản Albania. Nhưng Hodga, Baluka và Sehu tổ chức chống âm mưu của ông. Người ta kể rằng Sehu tự tay bóp cổ người này. Chẳng bao lâu chúng tôi biết những trường hợp dã man: bóp cổ người ta, rằng thủ tiêu. Ở Albania tình hình phức tạp như thế này: nếu ai đó bị phạt, do Hodga quyết định. Hai người - Sehu và Baluka, thực hiện bản án. Nếu cả bộ ba nhất trí rằng người này có hại, thì họ tìm cách thủ tiêu bí mật anh ta. Người này nhanh chóng biến mất.

Tất cả điều này rất giống rất với hệ thống mà Stalin vận hành. Ông cũng đã làm như thế qua Beria và qua những nhân vật khác tương tự. Bằng cách như thế nhiều người đường hoàng đã bị giết bởi Stalin. Tình hình này cũng xảy ra ở Albania. Tình hình này được gây ra sự sợ hãi dân chủ hoá đất nước, sợ hãi của cuộc sống xã hội và Đảng. Nhưng con đường này tôi xem là không thể tránh khỏi. Chính do điều này chúng tôi đã đổ vỡ. Sự đổ vỡ này phát triển theo từng giai đoạn như thế nào? Trước hết, chúng tôi biết rằng Albania với Trung Quốc tiến hành các cuộc thương thuyết, nhằm chống ĐCSLX và những người khác các đảng anh em. Những yếu tố khác chúng tôi trước đây không có.

Trong thời gian Đoàn đại biểu Albania từ Trung Quốc qua Liên Xô. Có một phụ nữ Albania trung thực nhất đến gặp Ban chấp hành Trung ương chúng tôi. Tôi nghĩ rằng bây giờ họ bóp cổ bà ta, một người đáng thương. gestapo không bóp cổ bà ta, còn “người anh em” của mình bóp cổ bà vì bà là một người cộng sản chân thật tới Ban chấp hành Trung ương chúng tôi và kể lại Trung Quốc nói chuyện với Albania về cái gì và Albania đồng ý với Trung Quốc nhe thế nào. Chúng tôi quá ngây thơ, ngay khi biết về điều này, chúng tôi chạy đến gặp Sehu, ông còn nằm ở bệnh viện của chúng tôi, và kể cho ông ta nghe tất cả và hỏi, sao lại có thể tiến hành một cuộc một cuộc nói chuyện như thế ở Trung Quốc? Sehu bật dậy từ giường bệnh và lập tức bay về Albania.

Sự đổ vỡ quyết định được hình thành, khi ở Bucarest tiến hành Đại hội thường kỳ Đảng cộng sản Rumani. Chúng tôi quyết định họp ở đấy và trao đổi những suy nghĩ về vấn đề quốc tế, bao gồm những vấn đề mối quan hệ giữa những Đảng cộng sản và, cụ thể hơn, sự phân tích giữa các Đảng cộng sản khác và Đảng cộng sản Trung Quốc. Tôi nói ở đây không những về ĐCSLX và Đảng cộng sản Trung Quốc. Không. Vấn đề này động chạm đến các đảng anh em khác. Khi chúng tôi họp, thì hoàn toàn bất ngờ đối với tôi, phía Albania thẳng thắn phát biểu chống chúng tôi và ủng hộ Trung Quốc. Tôi không nhớ họ tên đại diện Đảng lao động tại Đại hội ở Bucarestе. Nhưng tôi hỏi ông:

- Việc gì thế này?

Ông trả lời:

- Đồng chí Khrusev, chính tôi cũng không hiểu cái gì cả. Nhưng tôi đã nhận chỉ thị ủng hộ Trung Quốc.

Chúng tôi nghĩ rằng chưa phải mất hoàn toàn, và muốn làm tất cả để phục hồi những quan hệ hữu nghị của chúng tôi với Albania. Tuy nhiên, dù chúng tôi đã cố hết sức, cũng không dẫn đến điều này.

Năm 1960 ở Kreml họp Hội nghị quốc tế tất cả các Đảng cộng sản và các Đảng anh em. Hodga đọc một bài phát biểu buộc tội và chống xô viết. Ông chỉ ra nanh độc hơn chính người Trung Quốc. Lúc đó bà Dolores Ibarruri phát biểu rất tốt, bà là một lão thành cách mạng, trung thành với phong trào cộng sản. Bà nói:

- Điều này là thế nào? Lời phát biểu của Hodga tương tự như một con chó, được người ta cho bánh mỳ, và cắn tay người cho ăn.

Điều này là rất rõ ràng. Xung đột với Albania xảy ra theo vấn đề hoàn toàn nguyên tắc.

Giới chóp bu Albania bằng phương pháp giết người công khai và bí mật, đã xây dựng Đảng, được duy trì đoàn kết bằng sự sợ hãi. Họ không thể chấp nhận cách giải quyết Đại hội 20 ĐCSLX. Vì thế trong cuộc đấu tranh chống Đảng cộng sản Liên Xô họ, cũng như Trung Quốc, đặt một lá chắn tên Stalin. Stalin - đấy là lý tưởng! Stalin - đây là một người mác xit, đây là một người Leninit, còn tất cả những người còn lại - đều là những người xét lại. Có những người xét lại phát biểu các vụ giết người công klhai và bí mật, có người phát biểu vì dân chủ hoá cuộc sống của Đảng và đất nước. Những người lãnh đạo Albania tỏ ra không theo con đường với những người như thế. Điều đó, tất nhiên, thảm hoạ thật sự cho nhân dân Albania. Không ai, không một người suy nghĩ bình thường có thể thể cho rằng sự lãnh đạo như thế lại có khả năng sử dụng lòng tin và kính trọng của nhân dân của mình, Đảng của mình. Họ bất đắc dĩ chịu đựng. Không chạy đâu được! Chính xác như thế, thời Stalin: Stalin tiến hành giết các cán bộ lãnh đạo Đảng, hàng nghìn cái đầu của những người chân thật, nhưng tất cả kêu to:

- Stalin muôn năm! Stalin - người bạn tốt nhất của nhân dân, Stalin - cha già dân tộc!

Hodga, hình như người ta không gọi như thế: ông còn trẻ theo tuổi tác, nhưng ông muốn điều này. Theo hiểu biết của ông, có thể đạt được điều này, chỉ bằng cách giữ Đảng và nhân dân trong sự sợ hãi, bắt nhân dân phụ thuộc vào mình bằng hăm doạ và bạo lực. Mao cũng tiến hành chính sách như vậy. Bây giờ anh hãy bật radio và nghe. Cái Trung Quốc nói, cái Tirana nói. Ngôn ngữ khác nhau, nhưng bản chất là một. những người lãnh đạo của chúng xuất phát từ một quan niệm rằng: nhân dân- cứt, còn lãnh tụ - thiên tài. Vì thế ở họ không phải lãnh tụ sợ nhân dân, mà ngược lại, nhân dân sợ lãnh tụ. Còn khi tôi gặp và bàn bạc với Mao trong thời kỳ mối quan hệ chúng tôi tốt nhất, thì trong nhiều câu tôi có cách nào hiểu Mao. Lúc đó tôi xếp vị trí ông ta thuộc vào đặc điểm nào đấy của ý nghĩ Trung Quốc, thuộc vào đặc điểm lịch sử của dân tộc Trung Quốc. Sơ đồ sự bàn luận của ông, đối với tôi, là khá sơ sài, lần khác ông bật ra trong sự phân tích rất phức tạp. Tôi cũng nhắc đến có lần về khẩu hiệu “Trăm hoa đua nở”, có nghĩa là hãy thúc đẩy thúc đẩy tác cả các xu hướng văn hoá. Giờ đây ai cũng biết rõ ràng đây là sự khiêu khích. Khẩu hiệu này được tung ra để kêu gọi mọi người cởi mở, còn sau đó sự cởi mở này bị trấn áp với “hoa”, không có lợi theo mùi hoặc hoặc màu.

Hoặc một khẩu hiệu khác, được Mao đưa ra và Hodga đớp lấy­: “Không sợ chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa đế quốc - chỉ là hổ giấy”, nghĩa là có con hổ không nguy hiểm. chúng tôi thật không hiểu điều này. Người ta tung ra khẩu hiệu như thế từ thời ấy, khi chúng tôi còn giữ những quan hệ tốt. Chúng tôi không thể lúc ấy coi thường khẩu hiệu này, mà phải coi trọng nó, vì rằng đưa nó ra là Mao, người bạn chúng tôi, lãnh tụ nhân dân Trung Quốc. Khẩu hiệu “hổ giấy” tồn tại một thời gian dài, nhưng bây giờ họ một điều gì đó ỉm đi, và không nhắc lại nó. Tôi không biết, người ta vứt bỏ nó hoặc nó được sử dụng, để người ta đi đến những khẩu hiệu khác. Điều này không tưởng tượng được: đế quốc Mỹ - hổ giấy? Dù sao hổ - ác thú tương đối nguy hiểm, còn Mỹ - lại không phải là giấy.

Khi tôi bị từ chức, một lần tôi đã nghe trên đài phát thanh cuộc một nhà văn Mỹ nào đấy phỏng vấn Trần Nghị của. Nhà văn đặt câu hỏi thẳng: có lẽ, dựa trên lời phát biểu của Mao, Mỹ cho rằng các ông muốn gây chiến, điều đó liệu có đúng không? Trần Nghị trả lời:

- Không, chúng tôi không muốn chiến tranh và sẽ không đánh nhau chỉ trong trường hợp, nếu có cuộc cuộc tấn công trực tiếp vào lãnh thổ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.

Cho dù điều này lời kêu gọi không có ẩn ý với đế quốc Mỹ về cuộc tấn công vào Bắc Việt nam. Nhận được thế này: người Mỹ đúng hiểu Mao và gây chiến với Bắc Việt nam. Trung Quốc không can thiệp vào cuộc chiến tranh này, bộ đội của họ không bảo vệ Việt nam. Mặc dù là “hổ giấy”, nhưng họ biết rằng con hổ ấy có thể vồ lấy cổ họng. Sự tuyên bố khiêu khích tương tự khích lệ bọn xâm lược Mỹ và thúc giục họ tấn công thẳng Bắc Việt nam.

Hodga cũng giữ tình thế như thế. Đặc biệt còn có thể nói về Albania? Hôm nay nói Albania, không thể không nói về Trung Quốc. Chính sách của Albania, đó là sự phản ánh chính sách, mà Trung Quốc tiến hành với phương Tây. Hoặc chúng tôi lấy một khẩu hiệu của Mao: “Gió Đông thổi bạt gió Tây”. Dường như chỉ là những khái niệm hoàn toàn về khí hậu hoặc địa lý. Nhưng ông đe doạ mọi người Trung Quốc: chính là gió đông có thể thổi mạnh.

Tôi kể thêm một cảnh nữa trong cuộc xung đột của chúng tôi với Albania. Như tôi đã nói, chúng tôi cho họ 12 tầu ngầm. Khi quan hệ căng thẳng, chúng tôi quyết định lấy lại tất cả tàu ngầm và thiết bị đi kèm, mà chúng tôi cho họ. Albania phản đối điều này. Có ba chiếc tàu ngầm hoàn toàn do người Albania chỉ huy, một hoặc hai chiếc do người cả hai bên. Chúng tôi đưa về được tám, chín tầu, còn lại ba hoặc bốn ở lại Albania, chúng tôi không thể lấy đi được. Nhưng chúng tôi chờ đợi cả phản ứng mãnh liệt từ phía Albania khi chúng tôi lấy đi tàu ngầm, thì tầu chiến của chúng tôi, tôi không nhớ bao nhiêu, lởn vởn ở bờ biển Albania đề phòng bất trắc. Nếu chính quyền Albania dùng sức mạnh giữ tàu ngầm chúng tôi, thì tàu chiến chúng tôi buộc phải đe doạ họ.

Như thế đánh dấu sự đổ vỡ hoàn toàn với Albania. Tôi không biết, Albania có thắng từ điều này không. Tôi nghĩ rằng họ thua: chúng tôi ngừng giúp đỡ họ, tất cả chấm dứt. Мне không biết, sự khó khăn lúc ấy ở Albania, nhưng tin đồn là Trung Quốc quyết định giúp đỡ họ. Trung Quốc sau này có giúp đỡ, nhưng tôi không biết trong mức độ nào, như chúng tôi. Tôi nghĩ rằng chưa chắc, vì rằng bản thân Trung Quốc trong thời gian ấy cũng rất khó khăn. Sự thật sự cần thiết của Albania so với Trung Quốc là rất nhỏ, để Trung Quốc có thể làm một điều gì đó. Bây giờ tôi không có khả năng thậm chí xác định gần đúng về định lượng vì lẽ Đại sứ quán Liên Xô ở Albania bị cô lập và người Albania ngừng đến đó. Họ đã giết những người như thế. Nhưng chúng tôi bị tước mất khả năng nhận thông tin.

Tiếp tục ra sao đây! Tôi xem rằng phải làm hết sức để sự xung đột giữa ĐCSLX và các Đảng cộng sản khác với Trung Quốc, thu hẹp và tan đi. Đi tới đạt được tình thế mà phong trào cộng sản là một khối và duy nhất. Điều này cần đạ ra là mục đích chính. Phải làm tất cả để làm mềm đi mối quan hệ chúng tôi và sau đó biến chúng thành tình hữu nghị. Điều này sẽ vì lợi ích của nhân dân Liên Xô, vì lợi ích của tất cả nhân dân yêu chuộng hoà bình, vì lợi ích nhân dân Trung Quốc, vì lợi ích cuộc đấu tranh vì hoà bình, vì sự cùng tồn tại hoà bình. Lãnh đạo Trung Quốc nhiều lần chửi rủa Liên Xô, ĐCSLX vì khẩu hiệu chung sống hoà bình. Tuy nhiên, khi những nhà báo tư sản hỏi dồn Mao, chính ông lặp lại rằng Trung Quốc cũng ở vị trí chung sống hoà bình. Nhưng Trung Quốc không phải luôn luôn làm thế. Họ phát biểu vì chung sống hoà bình, thì lại chống. Albania vẫn theo đuôi Trung Quốc.
Mao Trạch Đông



Bây giờ tại Trung Quốc, học thuyết Mao hoàn toàn chiến thắng. Nhưng vào giữa thập niên 40 người ta đã nói rằng, không thể nào, những người cộng sản Trung Quốc không chiến thắng. Việc này được xác nhận khi ở Trung Quốc triển khai “cách mạng văn hoá”.

Tôi đã nói:

- Chuyện vớ vẩn!

Tất nhiên chiến thắng. Quân đội của họ mạnh, tinh thần không tuân theo, luật pháp không được được thừa nhận. Nếu anh không nghe thì chém đầu. Nhưng họ làm điều này một cách kịch, tụ tập trên quảng trường hàng nghìn mọi người và mắng nhiếc những người bất đồng. Đây là chính sách? Thậm chí không thể nói rằng điều này là thế. Chính sách dã man. Có cái gì đấy không xác định, nhưng những sự kiện thực, và anh không làm được cái gì cả, điều kiện sống ở đó phức tạp thế đấy.

Lưu Thiếu Kỳ - một người thông minh nhất, ông không đầu hàng, ông không đồng ý với chính sách Mao Trạch Đông và có lần đấu tranh chống Mao. Điều này làm ông mất rất nhiều những người ủng hộ mình. Nhưng họ không có sức mạnh thực sự. Nhưng Lưu Thiếu Kỳ vẫn thực hiện không phải vì rằng vì ông có những người ủng hộ mình mình, những người không trao ông cho Mao Trạch Đông. Không, Mao có thể bóp cổ Lưu dễ dàng. Nhưng điều này gây ra cơn giận quần chúng, mà Lưu biết rõ. Mao biết điều này và đấu tranh không phải chống Lưu những một con người, mà như chống người mang một hệ thống nhất địng quan điểm chính trị, muốn cô lập Lưu về mạt chính trị.

Việc sùng bái cá nhân Mao - cũng là hiện tượng phức tạp. Sự sùng bái chúng ta đã và đang gặp không những ở Trung Quốc. Bao nhiêu thế kỷ rồi, người ta xác định:

- Xin Ngài, xá tội, xin Ngài, xá tội!

Giúp cái gì? Giúp ai? Thường không giúp, nhưng mục sư làm cho chúng ta và nhân dân tin vào Trời. Chính thế. Nhân thể nói thêm, Mao bắt đầu ca ngợi mình. Chẳng hạn, có một dẫn chứng thế này. Thời tôi còn làm việc trong lãnh đạo xô viết, tôi bằng quân đội chúng ta đã in những tác phẩm của Mao về vấn đề quân sự. Tôi gọi nguyên soái Malinovsky và nói:

- Đồng chí Malinovsky, cơ quan đồng chí đang in cho Mao. Quân đội xô viết đánh đánh tan quân Đức mạnh bậc nhất. Nhưng Mao chiến đấu tại Trung Quốc 20 thậm chí 25 năm, và suốt thời kỳ ấy, Mao và kẻ thù của ông chọc lưỡi lê và dao vào lưng nhau. Giờ đây đồng chí lại in “Tác phẩm về quân sự” của Mao. Để làm gì? chúng ta học những tác phẩm này để chiến đấu trong tương lai hay sao? Phần nào cơ thể chấp nhận quyết định như thế? Điều này xảy ra 5 năm trước đó. Những người thông minh nói chung là những người giải quyết một vấn đề, nhưng giải quyết sự ngu ngốc, vâng họ và bản thân họ đã đồng ý thực hiện sự ngu ngốc. Nhưng bây giờ, có lẽ, những cuốn sách này nằm trong kho, nếu có thể được, đơn giản là đốt đi.

Tôi muốn được dừng lại chút ít ở “cá nhân”.

Một năm hoặc một năm rưỡi trước đây, như tôi đã nghe, lan truyền tại Liên Xô ý kiến, rằng tôi làm Trung Quốc cãi nhau với Liên Xô. Tôi không tranh luận, vì lịch sử tự thân chỉ ra giá trị bằng tuyên bố tương tự. Nhưng tôi ngạc nhiên, buồn và bực vì Youdin lặp lại sự ngu ngốc như thế, một con người từng là đại sứ Liên xô tại Trung Quốc trong thời gian bắt đầu cuộc xung đột Xô-Trung. Vì vậy - có vài lời về Youdin. Ông nói ý rằng là tôi chọc tức Mao và ông bị biến thành một người chống xô viết. Nếu ông nói riêng với tôi điều này, tôi sẽ chứng minh bằng văn bản rằng sự bắt đầu cuộc xung đột của chúng ta với Mao do chính Youdin gây ra. Và nếu ngồi vào bàn thảo luận xoàng vấn đề đã nêu, thì tôi có đủ cơ sở nói, ở đâu xuất hiện Youdin, sẽ phát sinh xung đột của chúng ta với các nước ấy. Khi Youdin đến Nam Tư, thì chúng ta phê phán Tito. Cử Youdin đi Trung Quốc, thì chúng ta chửi nhau với Trung Quốc. Lúc ấy không phải đơn giản có sự trùng hợp như vậy.

Tôi kính trọng Youdin. Ông ta đến Trung Quốc như thế nào? Mao gửi một bức thư cho Stalin đề nghị Stalin giới thiệu cho Mao một nhà triết học mác xit: gửi ông ta đến Trung Quốc, vì rằng Mao muốn biên tập những lời phát biểu của mình để một người có học vấn giúp đưa những lời này ở dạng thích đáng, để cho không mắc lỗi về triết học mác xit. Người ta chọn Youdin. Và cử ông ta. Youdin làm việc ở đó, về mặt tinh thần được lòng Mao. Mao thậm chí đến chỗ ông ta ở Đại sứ quán thường xuyên hơn là Youdin đến chỗ Mao. Thậm chí Stalin đôi khi lo ngại rằng Youdin lúc nào đấy thoá mạ trong quan hệ với Mao.

Mọi việc đều tốt lành. Và bỗng nhiên chúng tôi nhận từ Youdin một bức điện mật mã dài, trong đó Youdin mô tả những điều không tưởng tượng được, mà Youdin nghe từ Mao, về Liên Xô, các Đảng cộng sản, và cá nhân Youdin. Nếu trước đây người ta có ấn tượng rằng Mao tựa như quỵ luỵ trước Youdin, thì sau bức điện này rõ ràng là Mao nói chung không trọng Youdin. Có ý kiến cho rằng gọi Youdin về. Youdin là một đại sứ kém. Nhưng khi ấy những quan hệ cá nhân Mao và Youdin đã thành tình hữu nghị anh em, thì Youdin lại có ích. Nhưng thuần tuý công việc của Đại sứ quán chẳng ma nào cần Youdin? Giả thiết rằng các nhà ngoại giao thay chỗ Youdin. Khi ông ta có xung khắc với Mao, thì ông ta là đại sứ - và cũng không phải đại sứ, mà chỉ trên cơ sở triết học, ông đã đổ vỡ hoàn toàn với Mao. Và chúng tôi rút ông về Liên Xô.

Chúng tôi đến Trung Quốc năm 1954 và tiến hành một số hội đàm với Mao, mà sau này tôi nói với các đồng chí:

- Sự xung đột của chúng ta với Trung Quốc khó tránh.

Tôi có kết luận như vậy từ phản ứng Mao và từ bối cảnh vây quanh chúng ta. Bối cảnh là những người châu Á: lễ độ đến quá thái, cảnh giác đến không thể, nhưng không chân thật. Chúng tôi ôm và hôn Mao một cách thân mật, bơi cùng với nhau trong bể bơi, tán chuyện các vấn đề khác nhau… Nhưng điều này trông có vẻ ngọt ngào. Những vấn đề riêng biệt phát sinh và đặt trước chúng ta làm cảnh giác chúng ta. Nhưng chính là, tôi cảm thấy và cho tất cả các đồng chí rằng Mao không thể cam chịu chấp nhận bất kỳ một Đảng cộng sản khác, mà không phải không Đảng cộng sản Trung Quốc, lại đứng đầu phong trào cộng sản thế giới. Ông không thất bại.

Nếu Stalin sống thêm chút nữa, ông cũng bùng nổ xung đột trước đây nhận đổ vỡ hoàn toàn giữa Liên Xô và Trung Quốc. Chính trị - nói chung đó là trò chơi. Và Mao tiến hành chính sách của mình, trò chơi của mình. Đặc điểm của nó được kết luận chỉ theo cách của người châu Á, nịnh bợ và nham hiểm. Sau Đại hội 20 ĐCSLX Mao nói:

- Đồng chí Khrusev đã mở mắt chúng tôi, đã nói sự thật, và chúng tôi sẽ chấn chỉnh.

Chính Mao công bố lời phát biểu này, rồi sau này nổ ra mọi xung đột. Khi Mao tiến hành đường lối chính trị sai lầm và đưa khẩu hiệu “Trăm hoa đua nở”, khi gặp nhau, ông hỏi tôi:

- Đồng chí Khrusev, đồng chí chí nghĩ thế nào về “trăm hoa”?

Tôi trả lời:

- Đồng chí Mao Trạch Đông, chúng tôi không hiểu đơn giản như thế.

Tất nhiên chúng tôi không công bố ý kiến của mình về vấn đề này. Tôi xung đột với Mao chỉ mang tính chất cá nhân, nhưng chúng tôi không phát biểu công khai, mặc dù đã ý kiến chung. Thậm chí không có một cái gì cả được công bố theo lý do đã nêu. Nhưng tôi nói với Mao:

- Chúng tôi không hiểu điều này, vì rằng hoa tồn tại khác nhau: có ích, và không có ích, và đơn thuần có hại.

Mao đồng ý, rằng chúng tôi hợp với điều đó. Ông là một người thông minh và tự ông hiểu rằng lần chúng tôi không công bố một cái gì cả trong mối liên hệ đã nêu, nghĩa là, chúng tôi không đồng ý.

Và bỗng nhiên Mao đưa một ý tưởng mới: trong 5 năm “đuổi kịp Mỹ”.

Bắt đầu ông ta tổ chức các công xã, tạo ra những nhà ăn tập thể. Tuyên bố, rằng ý tưởng chung sống hoà bình - quan điểm hoà bình tiểu tư sản.

Sau đó Trung Quốc nói, ở chủ nghĩa xã hội sự phân bố phúc lợi theo số lượng và chất lượng lao động là khẩu hiệu tư sản. Tôi đã nghe điều buộc tội rằng chúng tôi theo đuôi bọn tư sản. Lúc ấy quả là người ta đã đặt những vấn đề nguyên tắc quản lý phát triển kinh tế đất nước. Chúng tôi không thể đi sau Trung Quốc. Còn bây giờ nhà triết học Youdin trút tất cả cho cá nhân tôi. Ông làm tôi sửng sốt. Tôi coi ông như nhà thông thái.

Hoặc lấy vấn đề chiến tranh và hoà bình. Khi tôi và Mao cùng mặc quần đùi nằm ở một bể bơi ở Bắc Kinh tranh luận vấn đề thế giới. Mao nói với tôi:

- Đồng chí Khrusev, đồng chí tính sao: nếu so sánh sức mạnh quân sự của phe tư bản phe xã hội chủ nghĩa, thì Trung Quốc đưa ra chừng này tập đoàn quân, Liên Xô - chừng này… các nước xã hội chủ nghĩa còn lại - chừng này… còn kẻ thù đưa ra bao nhiêu? Rõ ràng chúng ta chiếm ưu thế.

Tôi nói:

- Đồng chí Mao Trạch Đông, bây giờ mà tính toán như thế tỷ lệ sức mạnh e là không thích hợp. Khi vấn đề được giải quyết bằng nắm đấm hoặc lưỡi lê, có thể tính xem phía ai có bao nhiêu lưỡi lê và ai trội hơn. Khi xuất hiện súng trường, đông quân hơn nhưng ít súng hơn chưa chắc chiến thắng quân thù ít hơn theo số lượng. Nhưng bây giờ, khi có bom nguyên tử, ai có bao nhiêu bia đỡ đạn - không tỏ ra sức mạnh thực tế của mình.

Mao không đồng ý với tôi. Nhưng chẳng có lẽ tôi đồng ý với ông?

Hoặc chúng tôi lấy lời tuyên bố của ông, khi năm 1957 ông đến Moskva dự Hội nghị đại diện cộng sản và các Đảng công nhân. Đã có những cuộc nói chuyện nhã nhặn, lịch thiệp nhất được, đồng thời rất cởi mở. Mao nói với tôi:

- Thưa đồng chí Khrusev, nguyên soái Zukov, phát biểu trên báo rằng nếu một cường quốc đế quốc tấn công bất kỳ một nước xã hội chủ nghĩa nào, thì Liên Xô tức khắc có đòn giáng trả. Điều này không đúng!

- Thưa đồng chí Mao Trạch Đông, Zukov phát biểu không phải theo ý mình, Ban chấp hành Trung ương Đảng chúng tôi quyết định như thế, chúng tôi, Bộ trưởng quốc phòng Liên Xô nhất thiết phải phát biểu. Tôi cũng nói rằng đây là quan điểm xô viết.

Lúc ấy chúng tôi nảy sinh không phải là cãi nhau, mà là tiến hành thảo luận hữu nghị, để làm sáng tỏ chân lý.

Mao tuyên bố với tôi:

- Tôi cho rằng nếu bọn đế quốc tấn công chúng ta, tấn công Trung Quốc, thì Liên Xô không phải bị lôi vào. Tự chúng tôi sẽ chiến đấu. Chỉ có Liên Xô được bảo vệ ư, khi tất cả dần trở thành chỗ của mình. Chẳng hạn, nếu họ tấn công các đồng chí, các đồng chí cũng không giáng trả à.

- Giáng thế nào?

- Hãy đi khỏi, đi khỏi một, hai, ba năm.

- Đi đâu?

- Nhưng các đồng chí đã đi. Có thời rút lui về Stalingrad, còn bây giờ các đồng chí có thể về Ural. Sau lưng các đồng chí là chúng tôi, Trung Quốc.

- Đồng chí Mao Trạch Đông, nếu xảy ra chiến tranh, thì nó kéo dài bao lâu? Cuộc chiến tranh này sẽ không giống trước đâu. Cuộc chiến tranh trước đây chiến tranh không quân và xe tăng, còn bây giờ là chiến tranh tên lửa và bom nguyên tử. Liệu chúng tôi có khoảng cách 3 năm để lui về Ural? Có thể chúng tôi sẽ chỉ có một số ngày, còn sau đó tách thành những mảnh vụn? Không ai không thể bây giờ có thể nói trước điều này. Vì thế chúng tôi phải ở lại để kìm đối thủ chiến tranh hạt nhân. Nếu chúng tôi nói sẽ không giáng trả, nghĩa là, tự chúng tôi bảo kẻ thù cứ tấn công. Nhưng chúng tôi tuyên bố rằng chúng tôi giáng trả đối thủ, chính như vậy chúng tôi kìm người ta khỏi tấn công”.

Đại để có những sự bất đồng như thế. Tuy nhiên nếu chúng tôi nói về Mao, thì đây là một việc hoàn toàn khác, nếu chúng tôi nói về Trung Quốc, thì nói có mục đích. Nếu chúng tôi bắt đầu mang nhân dân Trung Quốc, thì chúng tôi té ra ở vị thế dân tộc chủ nghĩa. Chủ nghĩa dân tộc - điều này chúng tôi xem là một dân tộc nào đấy có quyền đặc biệt và ưu thế. Đây là chủ nghĩa dân tộc. Vì thế chúng tôi và bây giờ chân thành tin rằng người Trung Quốc - anh em của chúng tôi, cũng là những người như chúng tôi. Và nếu một thanh niên Trung Quốc lừa dối tấn công Đại sứ quán chúng tôi, không có nghĩa là, nhân dân Trung Quốc ghét cay ghét đắng chúng tôi. một thanh niên - không phải là tất cả dân tộc. Chúng tôi là những người mác xit! Cần phải hiểu rằng có cả người thanh niên khác. Không phải tất cả Trung Quốc có mặt trên quảng trường này, và không phải tất cả những ai có mặt trên quảng trường này và kêu to, đều đồng ý với những người tương tự. Việc thế đấy! Bao nhiêu người Trung hoa từng khóc ở họ? Tại Trung Quốc triển khai cuộc đấu tranh mạnh mẽ, người Trung Quốc giết lẫn nhau. Như bên chúng ta Stalin bắn hàng trăm nghìn công dân. Chúng tôi, những đảng viên, chịu trách nhiệm về điều này, nhưng không thể bây giờ cho rằng toàn Đảng làm như thế. Có sự lạm quyền bởi Stalin, còn bây giờ chính điều này lặp lại ở Mao.

Tôi dẫn ra thêm một số sự kiện trong lịch sử quan hệ của chúng tôi với Trung Quốc. Stalin rất phê phán Mao. Ông gọi Mao, theo quan điểm mác xit, là một nhà mác xit hang động. Quả là, thời gian mà Mao tiến hành cuộc trường chinh thắng lợi, thì những người cộng sản đã tiến sát Thượng Hải. Nhưng rồi họ dừng lại và không chiếm nó. Stalin hỏi Mao:

- Tại sao không chiếm Thượng Hải?

Mao trả lời:

- Ở đó sáu triệu dân. Nếu chúng tôi tới, phải nuôi họ. Nhưng nuôi bằng cách nào?

Đấy, một người mác xit? Mao dựa vào nông dân, mà không dựa vào giai cấp công nhân. Mao coi thường, không muốn chấp nhận giai cấp công nhân không muốn dựa vào nó. Stalin nhiều lần phê bình Mao từ quan Đảng mác xit và Stalin là đúng. Nhưng chứng cứ vẫn là chứng cứ. Mao, dựa vào nông dân, đạt được cho mình sự thắng lợi. Lúc ấy là lạ, giải thích thêm duy vật lịch sử: nắm chính quyền, dựa vào nông dân! Nghĩa là, sự thật lịch sử - đằng sau ông ta. Chỉ là sự thật không phải mác xit. Có lẽ những thắng lợi có được bở thời gian và nói chung với những kết quả khác nhau. Điều này trong lịch sử cũng thấy rõ.

Một trường hợp cụ thể khác. Thời Stalin, Liên Xô ký một hiệp định với Trung Quốc về cùng nhau khai thác dầu mỏ ở Tân Cương. Đây là một sai lầm, thậm chí là xúc phạm người Trung Hoa. Tại Trung Quốc, trước đây là Pháp, người Anh, người Mỹ, còn bây giờ người xô viết cũng chui vào đây. Điều này là một việc không tưởng tượng được! Stalin cũng đã làm những việc như thế ở Ba Lan, ở CHDC Đức, ở Bulgary, ở Tiệp Khắc, ở Rumani. Chúng tôi sau này huỷ bỏ­ tất cả hội hỗn hợp kiểu này. Trường hợp thứ ba. Stalin gọi tất cả chúng tôi và hỏi: ai biết, vùng nào của Trung Quốc người ta khan thác vàng và kim cương? Chúng tôi không phải là những người am hiểu, trả lời là không biết. Sau đó, có một chuyện đùa vui, khi chúng tôi tụ họp với nhau ở chỗ Stalin. Beria nói:

- Ông có biết ai biết điều này không? Nghệ sỹ Kozlov đấy. Beria hát: “không đếm được kim cương trong hang đá…”.

Nhân thể nói thêm, Beria kết thân với Stalin, bảo là, Trung Quốc tài nguyên giàu có và Mao giấu chúng; chúng ta cho Mao vay tiền, ép ông ta bán cho chúng ta kho báu từ dầu mỏ của mình. Thế là Stalin cũng thích.

Một lần chúng tôi ngồi ở chỗ Stalin và suy nghĩ về việc cao su. Hình như, chính tôi đưa ra ý nghĩ giải thích ở chỗ Mao, ở một nơi vùng nào đó Trung Quốc có thể trồng cao su. Triển khai vấn đề này, cho Trung Quốc tín dụng, máy móc và chúng tôi không còn lo về cao su mua từ các nước tư bản. Chúng tôi gửi một bức điện đến Bắc Kinh. Người Trung Quốc trả lời rằng trên đải Hải Nam có thể trồng được cao su huvea nếu được cung cấp tín dụng, thì họ đồng ý. Việc này có một tiến triển nào đấy, và chúng tôi ký một hợp đồng. Nhưng sau này té ra là vùng trồng cao su, lại nhỏ bé và không có khả năng đáp ứng nhu cầu của chúng ta. Vụ việc tắt ngóm như thế.

Có lần Stalin thích dứa hộp. Ông đích thân đọc chính tả một bức điện cho Mao, Malenkov ngồi ghi:

- Viết đi, để họ cho chúng ta chỗ xây dựng xây dựng một xí nghiệp dứa hộp.

Tôi nói:

- Đồng chí Stalin, họ mới nắm chính quyền, và ở đó còn có xí nghiệp của các nước khác nữa. Bây giờ lại thêm xí nghiệp của chúng ta, từ một nước xã hội chủ nghĩa. Điều này làm mếch lòng Mao.

Stalin nhìn tôi một cách không thiện cảm, giận, nạt nộ… Rồi bức điện được gửi đi. Qua một hai ngày, chúng tôi nhận câu trả lời của Mao:

- Chúng tôi đồng ý. Nếu các ông quan tâm đến dứa hộp, cho chúng tôi tín dụng, chúng tôi sẽ xây dựng xí nghiệp và sẽ cung cấp cho các ông tất cả sản phẩm của nó và trừ khoản nợ tín dụng.

Lúc ấy mọi người nghe, trong khi Stalin hung dữ và chửi rủa. Tất nhiên ông rất giận. Những loại điện như thế không bao giờ tôi ký, các thành viên Chính phủ chúng tôi sau này không bao giờ ký. Chúng tôi đã không làm một điều gì xúc phạm người Trung Quốc cho đến khi chính người Trung Quốc đá chúng ta. Nhưng quả là nếu như thế thì tôi cũng không phải là chúa Jesu.

Người Trung Quốc làm gì khi chúng tôi còn giữ những quan hệ tốt với họ? Họ đang có chiến tranh những hòn đảo với Tưởng Giới Thạch. Chúng tôi cung cấp cho Bắc Kinh vũ khí của mình, còn chúng tôi quan tâm đến vũ khí chiến lợi phẩm Mỹ. Người Trung Quốc có một số tên lửa, bị người Mỹ bỏ hoang và không bị hỏng. Chúng tôi quan tâm một mẫu mới tên lửa “không đối không”, và chúng tôi đề nghị Trung Quốc cho chúng tôi để nghiên cứu. Bắc Kinh không trả lời. Chúng tôi lặp lai yêu cầu. Bắc Kinh trả lời:

- Chúng tôi cũng chưa phân loại được.

Nhưng chúng tôi so sánh mức vũ khí của Mỹ với mức vũ khí của chúng tôi! Chúng tôi đang truy lùng tất cả vũ khí bí mật, tên lửa của Mỹ, để làm điều này chúng tôi đã ký một hợp đồng sản xuất bom nguyên tử, đã đưa cho họ mẫu, còn họ thì lại từ chối chúng tôi. Lúc đó chúng tôi làm chậm việc cung cấp. Bắc Kinh lo ngại. Và tôi nói cho các quân nhân chúng tôi: Hãy giải thích cho người Trung Quốc, dường như, các anh sử dụng vũ khí từ chúng tôi, thậm chí cả tên lửa chiến lợi phẩm của Mỹ mà các anh không muốn đem ra a? Họ hiểu và thế là họ gửi tên lửa này. Tôi đến xem nó. Tên lửa này tốt hơn của chúng tôi, nhưng người Trung Quốc cố ý không gửi cho chúng tôi đầu dò nhiệt. Chúng tôi sau này làm việc một số năm để giải quyết nhiệm vụ này. Đây là khoảng năm 1958.

Theo thoả thuận, máy bay của chúng tôi có thể sử dụng các sân bay Trung Quốc. Sau đó, khi chúng tôi có tàu ngầm tầm xa, thì để để liên lạc với nó, chúng tôi cần xây dựng một đài phát thanh trên đất Trung Quốc. Trung Quốc yêu cầu chúng tôi cho họ những bản thiết kế và dạy chế tạo tàu ngầm. Lúc ấy chúng tôi viết cho họ về việc đài phát thanh và lập tức nhận một bức điện trả lời: “Không!”.

Nhưng chẳng bao lâu có một bức điện mật nói về tâm trạng chống xô viết trong giới lãnh đạo Trung Quốc. Và tôi nói với các đồng chí của mình rằng: “Mời đồng chí Mao Trạch Đông đến thăm Liên Xô theo đường ngoại giao. Nhưng lần này có thể chúng tôi nói chuyện tay đôi, đằng nào cũng thế, bí mật hoặc công khai? Cần gặp riêng để giải thích”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét