Thứ Tư, 29 tháng 8, 2012

(2) NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA NỀN KINH TẾ VÀ MỘT VÀI GIẢI PHÁP CẤP BÁCH

Bài viết cũ của tôi:

BÀN THÊM VỀ NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA NỀN KINH TẾ NƯỚC TA VÀ MỘT VÀI GIẢI PHÁP CẤP BÁCH
                           
II- NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN CỦA NHỮNG KHÓ KHĂN HIỆN NAY
Đã có nhiều bài viết liệt kê nguyên nhân của những khó khăn hiện nay của nền kinh tế nước ta, do đó ở đây chúng t“i chỉ đi sâu phân tích những nguyên nhân kinh tế cơ bản nhất, gồm nguyên nhân bên trong và bên ngoài.
1) Mô hình phát triển kh“ng hợp lý là nguyên nhân cơ bản dẫn đến những khó khăn hiện nay.
Những dẫn chứng dưới đây sẽ cho thấy nguyên nhân cơ bản dẫn đến những khó khăn hiện nay là chúng ta đã phát triển theo mô hình dựa quá nhiều vào vốn đầu tư và kh“ng coi trọng vấn đề hiệu quả, mà nguyên nhân sâu xa của chiều hướng phát triển lệch lạc này là hệ thống các chính sách kinh tế không hợp lý, trước tiên là chính sách tài chính và chính sách tiền tệ.
a) Mô hình phát triển dựa quá nhiều vào đầu tư
Đồ thị dưới đây cho thấy những tỷ lệ tăng trưởng kinh tế rất cao của nước ta trong nửa đầu thập kỷ 90 gắn liền với việc gia tăng mạnh mẽ của tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm nội địa trên GDP. Nếu như trong thời kỳ 1986-1990, tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm nội địa thấp, chỉ lần lượt là là 12,6% và 2,4% thì tỷ lệ tăng trưởng GDP chỉ đạt 4,3%. Ngược lại, trong thời kỳ 1991-1995, tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm lên tới 22,3% và 14,7% thì tỷ lệ tăng trưởng GDP cũng tăng mạnh, tới 8,2%. Trong các năm 1996-98, tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm tiếp tục tăng lên tới 28,7% và 19,6%, nhưng tỷ lệ tăng trưởng GDP giảm nhẹ xuống còn 7,8%. Sự giảm sút của tỷ lệ tăng trưởng GDP trong những năm gần đây là do cơ chế chính sách càng ngày càng kh“ng theo kịp với tình hình mới và ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ châu á làm cho hiệu quả của vốn đầu tư giảm sút nhanh, dẫn tới tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP tiếp tục tăng lên, nhưng tỷ lệ tăng trưởng GDP giảm sút. Vì tỷ lệ đầu tư của Việt nam trong những năm gần đây đã xấp xỉ ngang với các nước trong khu vực Đ“ng á và cao hơn hẳn các nước Nam á nên kh“ng thể nói là đầu tư của ta còn thấp làm kinh tế kh“ng tăng trưởng nhanh được.

 
Đồ thị 4: Tỷ lệ tăng trưởng GDP, tỷ lệ đầu tư và tỷ lệ tích luỹ nội địa so GDP (%)








Vai trò quyết định của đầu tư còn thể hiện rõ hơn ở quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng vốn đầu tư như đồ thị 5 dưới đây chỉ ra. Tỷ lệ tăng trưởng vốn đầu tư thời kỳ 1991-1995 là 30,3%/ năm là mức rất cao, đã tạo ra tỷ lệ tăng trưởng GDP tới 8,2%/ năm. Đồ thị và các phân tích tương quan cũng cho thấy đầu tư có độ trễ khoảng hai năm so với tăng trưởng. Vì đầu tư là động lực của quá trình tăng trưởng kinh tế nước ta, nên khi tỷ lệ đầu tư trên GDP và tỷ lệ tăng trưởng đầu tư tăng chậm, thậm chí giảm, thì có thể dự báo r”ng tỷ lệ tăng trưởng GDP phải giảm. Do tỷ lệ đầu tư đang giảm sút từ hai năm nay, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nước ta sẽ còn thấp trong 2 năm tới nếu như kh“ng có những thay đổi lớn về chính sách làm tăng hiệu quả vốn đầu tư.
Đồ thị 5: Quan hệ giữa tăng trưởng GDP và tăng trưởng vốn đầu tư (%)


 
 








     b) Cơ cấu nguồn vốn đầu tư kh“ng hợp lý
Bảng 2 cho thấy vốn nước ngoài đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với đầu tư ở nước ta. Chênh lệch giữa tỷ lệ đầu tư và tỷ lệ tiết kiệm nội địa trên GDP rất cao trong giai đoạn 1986-90 và 1993-1997, chỉ giảm mạnh trong các năm 1991-92 khi hệ thống Liên x“ sụp đổ và 1998-1999 khi diễn ra cuộc khủng hoảng kinh tế châu á. Điều đó có nghĩa là chúng ta đã quá lạm dụng vốn nước ngoài trong phát triển kinh tế, đi ngược với chủ trương huy động nội lực của Đảng. So sánh với các nước xung quanh, rõ ràng tỷ lệ huy động vốn nước ngoài của ta đặc biệt cao. Đành r”ng điều kiện kinh tế chính trị và xã hội của mỗi nước có khác nhau, nhưng nếu như tất cả các nước xung quanh ta đều kh“ng để chênh lệch này vượt quá 4-5% GDP thì có lẽ chúng ta cũng kh“ng nên làm như vậy. Thực tế, các nước Đ“ng nam á và Hàn quốc tăng nhanh huy động tiết kiệm nước ngoài để đầu tư từ năm 1993-1995, tạo ra được những tỷ lệ tăng trưởng rất nhanh, nhưng đồng thời cũng dẫn đến khủng hoảng tài chính từ năm 1997.
Bảng 2: Chênh lệch giữa tỷ lệ tiết kiệm nội địa và tỷ lệ đầu tư trên GDP (%)

Nước
81-90
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Việt nam
-10,2*
-5,0
-3,8
-10,4
-8,4
-10,2
-12,0
-10,8
-4,7










Hồng K“ng
6,3
6,6
5,3
7
1,2
-4,3
-1,4
-3,6
0,3
Hàn quốc
-0,9
-3,2
-2,1
0,3
-1,1
-1,8
-4,7
-1,9
13,3
Singapo
0,6
11,6
11,2
8,6
16,1
17,8
15,9
14,4
18,2
Đài loan
11,4
6,5
3,7
1,8
1,9
1,9
3,9
2,8
2,4










Trung quốc
1
4,6
3,9
-1,6
0,6
0,3
0,9
3,3
2,5
Inđ“nêxia
1,4
-3,1
-1,6
-1,9
-2
-3,4
-3,4
-1,4
1,1
Malaixia
-3,3
-9,4
-3
-0,1
-1,6
-4
1,1
1,8
14,8
Philippin
-
-1,7
-1,4
-8,4
-6,5
-4,8
-4,6
-3,5
0,7
Thái lan
-4,9
-8
-6,3
-5
-5,6
-8
-8
-2,1
11,5










  Bangladesh
-11
-1,3
0,7
0,1
2,3
0,3
-2,7
-2,5
-1,5
  Ấn độ
-1,4
-0,7
-1,6
-1,3
-2,1
-1,4
-1,1
-1,5
-1,7
* : Việt nam: 1986-90. Nguồn số liệu: Asian Development Outlook 1999, Asian Development Bank.
Bảng 3 là một ví dụ khác về huy động nguồn vốn đầu tư kh“ng hợp lý. Một mặt, tỷ trọng vốn FDI đã tăng lên rất nhanh trong thời kỳ 1990-96, có lúc chiếm tới 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư của nền kinh tế. Mặc dù chỉ chiếm 1/3 vốn đầu tư, các doanh nghiệp FDI lại đóng vai trò quyết định làm tăng tỷ lệ tăng trưởng GDP. Điều này chứng tỏ luồng vốn nội địa tăng kh“ng tương xứng và nền kinh tế ngày càng phụ thuộc vào vốn bên ngoài. Mặt khác, tỷ trọng vốn của khu vực tư nhân và dân cư giảm mạnh và liên tục trong suốt thập kỷ 90 trong khi đây chính là nguồn vốn có hiệu quả kinh tế cao nhất và là nguồn vốn nội lực quan trọng nhất của đất nước. Thực tế khu vực ngoài quốc doanh kể cả n“ng nghiệp chỉ chiếm khoảng 20% vốn đầu tư, nhưng lại làm ra trên 30% GDP và sử dụng trên 70% lực lượng lao động xã hội.
Bảng 3: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư (%)
Năm
Từ Ngân sách NN
Doanh nghiệp NN
Tư nhân và dân cư
Vốn FDI
1990
26,0
11,3
49,0
13,7
1991
29,8
14,5
47,0
9,7
1992
35,3
5,2
44,6
15,0
1993
38,5
7,5
31,6
21,4
1994
24,1
12,5
34,1
29,4
1995
25,6
9,7
30,8
33,9
1996
28,2
10,7
26,9
34,1
1997
31,7
14,0
22,8
31,5
1998
36,9
16,7
21,3
25,1

c) Cơ cấu sử dụng vốn đầu tư kém hiệu quả
            Cơ cấu sử dụng vốn đầu tư kém hiệu quá kh“ng chỉ ở cấp toàn nền kinh tế mà còn ở cấp ngành và cấp từng sản phẩm. Ở cấp kinh tế quốc dân, hệ số ICOR[1] của ta tăng lên rất nhanh trong thập kỷ 90. Nếu như ICOR năm 1992 là 1,76 thì đến năm 1998, đã lên tới 5,3, tức là gấp 3 lần, nhanh nhất khu vực châu á (xem bảng 4). Mức ICOR năm 1998 của ta cao hơn mức trung bình thời kỳ 1991-97 của các nước so sánh trong khi trình độ phát triển kinh tế của ta còn thua xa. Năm 1999, dự kiến ICOR của ta sẽ lên tới 6,6. Điều này cũng nói lên r”ng nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế nhanh ở nước ta chủ yếu là tăng vốn đầu tư.
Bảng 4: So sánh hệ số ICOR của Việt nam và một số nước châu á

Nước
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Việt nam
2,4
1,76
2,20
2,83
2,68
3,05
3,56
5,30









Hồng K“ng
5,33
4,32
4,67
5,11
8,18
7,73
6,06
-6,94
Hàn quốc
3,45
7,69
6,34
4,08
4,06
5,21
6,98
-6,36
Singapo
5,73
5,52
3,39
3,59
3,72
4,80
4,53
24,93
Đài loan
3,00
3,35
3,89
3,88
3,98
4,16
3,12
4,58









Trung quốc
3,58
2,44
2,66
3,43
3,90
4,25
4,55
4,90
Inđ“nêxia
3,42
4,65
4,64
3,93
3,79
4,09
6,27
-2,28
Malaixia
3,72
4,91
4,47
4,11
4,30
5,06
5,39
-6,77
Philippin


9,90
5,36
5,00
3,72
4,44
-47,60
Thái lan
3,66
5,36
4,86
4,48
4,58
7,56
-104,25
-4,38









  Bangladesh
3,85
2,67
2,60
3,36
3,14
3,07
2,88
3,04
  Ấn độ
28,50
4,53
3,49
2,67
3,01
3,31
5,14
4,28
Nguồn số liệu: Tính từ các số liệu của Asian Development Outlook 1999, Asian Development Bank.
            Ở cấp ngành, vốn đầu tư được phân bổ kém hợp lý nên hiệu quá kh“ng cao. Theo bảng 5, tỷ trọng vốn đầu tư cho n“ng nghiệp đã giảm mạnh trong suốt thời kỳ 1991-95, trong khi đây là ngành có hệ số ICOR thấp nhất và tạo ra được nhiều lao động nhất. Đầu tư cho n“ng nghiệp bếp bênh, lúc tăng, lúc giảm trong các năm từ 1995 đến nay. Mặt khác, tỷ trọng vốn đầu tư cho c“ng nghiệp giảm đi nhanh chóng từ năm 1994 đến nay trong khi tỷ trọng vốn cho dịch vụ và hạ tầng xã hội tăng lên rất cao. Đây là quá trình dịch chuyển cơ cấu đầu tư bất hợp lý vì các nhà đầu tư đã chuyển vốn từ lĩnh vực sản xuất sang kinh doanh dịch vụ.
            Bảng 5: Cơ cấu sử dụng vốn đầu tư (%)
Ngành
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
C“ng nghiệp và xây xựng
38,4
44,0
48,9
55,3
39,0
33,0
41,1
31,5
 N“ng lâm ngư nghiệp
17,1
15,7
12,7
8,9
9,4
12,0
8,5
15,4
 Dịch vụ và hạ tầng xã hội
44,5
40,3
38,4
35,8
51,6
55,0
50,4
53,1
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
            Ở cấp sản phẩm, một mặt, do dự báo cầu kh“ng chính xác nên đã đầu tư ồ ạt vào một số ngành, dẫn tới cung vượt quá xa so với cầu, lãng phí cao và hiệu quả kinh tế kém. Ví dụ điển hình là sản xuất xi măng, sắt thép, than, mía đường, cao su, rau và thịt lợn. Mặt khác, chúng ta cũng đã sai lầm trong chọn lựa các ngành kinh tế mũi nhọn kh“ng phù hợp với trình độ phát triển hiện tại của nền kinh tế như cơ khí, điện tử, sinh học và vật liệu mới. Các ngành này có tỷ suất lợi nhuận rất thấp trong khi nhu cầu vốn đầu tư rất cao. Đầu tư chỉ tập trung vào mua sắm dây truyền thiết bị lắp ráp từ nước ngoài và xây dựng nhà xưởng, dẫn tới chi phí sản xuất rất cao và kinh tế phát triển hướng nội là chính. Hậu quả là nguy cơ mất lợi thế so sánh rất rõ. Hiện nay, người ta đang đổ x“ vào kinh doanh trong các ngành đang được bảo hộ mạnh và các ngành còn lợi thế so sánh cao như dệt may, nước giải khát, giày dép, làm cho giá thành sản phẩm sẽ tăng nhanh và các ngành này sớm mất nốt lợi thế so sánh.
            d) Tóm tắt nguyên nhân của tình hình trên[2]
Việc nền kinh tế nước ta phát triển gần như tự phát theo m“ hình kh“ng hợp lý nêu trên có nguyên nhân từ rất lâu. Do thất bại của cuộc tự do hoá hệ thống tài chính quá nhanh năm 1989-1990 đánh dấu b”ng cuộc khủng hoảng tiền tệ tín dụng năm 1990, chính phủ Việt nam đã trở nên quá thận trọng trong mỗi bước cải cách kinh tế, nhất là trong lĩnh vực tự do hoá các hoạt động ngân hàng và tín dụng. Trong những năm 1992-93, do chính sách tài chính tiền tệ quá chặt được áp dụng và có quá nhiều hạn chế và ràng buộc đối với các ngân hàng thương mại, tình trạng thiếu hụt vốn để tiền tệ hoá nền kinh tế và tích luỹ vốn phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế ngày càng trở nên trầm trọng trong khi nguồn vốn trong dân kh“ng được huy động và tỷ lệ dự trữ tiền tệ tăng tự phát tại các ngân hàng thương mại. Trong bối cảnh thiếu nghiêm trọng vốn tín dụng nội địa, từ năm 1992, các nhà đầu tư trong nước đã phải quay sang huy động nguồn vốn từ nước ngoài, kéo theo hiện tượng tự phát gia tăng tích luỹ và đ“ la hoá rất cao trong nền kinh tế.
Nhiều người đã hy vọng r”ng luồng vốn nhập khẩu từ nước ngoài sẽ cho phép nâng cao tỷ lệ đầu tư nội địa và động thời ổn định được tỷ giá, chiếc neo mà Ngân hàng trung ương cố gắng duy trì để đẩy lùi lạm phát. Ý tưởng này rất đúng nếu luồng vốn đầu tư nước ngoài được sử dụng để nhập khẩu c“ng nghệ mới, các máy móc thiết bị tiên tiến và các vật tư cần thiết phục vụ cho chiến lược phát triển hướng về xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng nội địa và khai thác các tiềm năng phát triển phong phú của đất nước. Tuy nhiên, như nhiều lý thuyết kinh tế và nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra, về lâu dài, chiến lược phát triển dựa vào vốn nước ngoài có nguy cơ dẫn đến khủng hoảng mới vì hai lý do: Một là, đầu tư nước ngoài có xu hướng làm giảm tỷ lệ tích luỹ nội địa và làm tăng tiêu dùng nội địa ngoài tầm kiểm soát, tức là có sự thay thế giữa hai dạng vốn trong và ngoài nước. Hai là, vốn đầu tư nước ngoài thường dẫn đến đánh giá cao nội tệ, làm cho hàng hoá sản xuất trong nước trở nên kém cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Rõ ràng hai hiện tượng trên đã từng bước diễn ra trong nền kinh tế Việt nam trong thời kỳ từ năm 1993-94 tới nay. Hậu quả cuối cùng là nền kinh tế đi vào giai đoạn suy giảm như chúng t“i phân tích ở trên.
Về mặt cơ cấu, trong thời kỳ 1988-91, do chính sách tự do hoá kinh tế rộng rãi và những đợt phá giá cao và liên tiếp, tỷ suất lợi nhuận của n“ng nghiệp và dịch vụ tăng nhanh nên vốn, vật tư, lao động và các nguồn lực khác được dồn vào hai khu vực này vì trong nền kinh tế thị trường, giá cả và tỷ suất lợi nhuận quyết định chiến lược đầu tư của các doanh nghiệp. N“ng nghiệp và dịch vụ phát triển trong khi c“ng nghiệp suy thoái. Từ năm 1992 đến hết 1993, vốn nước ngoài vào ngày càng nhiều và đồng tiền việt nam lên giá mạnh so với các loại ngoại tệ, dòng vốn chảy ngược từ n“ng nghiệp và dịch vụ sang c“ng nghiệp. Do đó tỷ lệ tăng trưởng c“ng nghiệp rất cao trong khi tăng trưởng của hai ngành trên chậm lại. Từ năm 1994, do nội tệ bị đánh giá ngày càng cao và kéo dài, trong khi vốn nước ngoài tiếp tục tăng nhanh, bản thân ngành c“ng nghiệp cũng kh“ng còn lợi thế so sánh nữa, các nhà sản xuất quay sang đầu tư vào dịch vụ và các ngành c“ng nghiệp còn và sẽ được nhà nước tăng cường bảo hộ. Quá trình này sẽ làm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tăng nhanh. Chính những sai lầm trong cơ cấu huy động và định hướng sử dụng vốn đầu tư, trong duy trì chính sách tài chính và tiền tệ kém mềm dẻo, lãi suất thực quá cao và tỷ giá kh“ng được điều chỉnh theo đà lạm phát đã hướng các hoạt động đầu tư chạy theo cơ cấu kém hiệu quả, nền kinh tế mất dần sức cạnh tranh. Hậu quả là nhà nước phải liên tục tăng cường chính sách bảo hộ th“ng qua tăng hạn ngạch hải quan và thuế nhập khẩu, giữ ổn định tỷ giá, cho phép sản xuất thay thế nhập khẩu tăng lên... Những biện pháp bảo hộ này, đến lượt mình, lại làm cơ cấu đầu tư méo mó hơn, đẩy nền kinh tế vào vòng khó khăn mới.
2) Cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực Đ“ng á đã làm tăng thêm những khó khăn cho nền kinh tế nước ta
Trong bài này, chúng t“i chỉ tóm tắt hai kênh chính qua đó cuộc khủng hoảng kinh tế châu á đã tác động tiêu cực tới lĩnh vực tăng trưởng, cụ thể là đẩy nhanh quá trình suy giảm kinh tế nước ta từ mùa đ“ng năm 1997: Giảm đầu tư nước ngoài trực tiếp và thu hẹp thị trường xuất khẩu.
            a) Đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI):
            Từ năm 1996-97, vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp (số dự án và tổng giá trị các dự án) đổ vào Việt nam bắt đầu giảm và ngày càng giảm với tốc độ nhanh như các số liệu trong bảng 6 dưới đây đã chỉ ra. Đặc biệt, vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp đăng ký năm 1998 đã giảm 11,3% so với năm 1997. Về các khoản vốn cam kết trước năm 1998, mặc dù chúng vẫn tiếp tục được triển khai trong các năm 1996, 1997, nhưng các số liệu cho thấy số dự án và tổng số vốn bị giải thể tăng lên rất nhanh chứng tỏ các nhà đầu tư nước ngoài đã bắt đầu giảm nhịp độ đầu tư và rút bớt vốn ra khỏi Việt nam kể từ năm 1997. Hậu quả là vốn đầu tư thực hiện năm 1998 giảm tới 40% so với năm 1997.
            Bảng 6: Vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) ở Việt nam (triệu USD)

1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Số dự án
153
195
273
371
412
368
331
275
Vốn cam kết:-
1417
2321
3661
4167
6566
8633
4397
3899
- Vốn cho các dự án mới
1274
2027
2588
3746
6607
8640
4514
3899
- Vốn bổ xung cho các dự án cũ
7.7
49
222
504
1247
684
1133
772
Vốn thực hiện:
206
380
1112
1936
2672
2607
3250
1960
- Vốn nước ngoài đưa vào
164
316
939
1658
2240
2294
2847
1831
- Vốn đóng góp của phía VN
42
64
173
278
432
313
403
129
Nguồn số liệu: Tổng hợp từ Vietnam Investment Review và Báo Đầu tư.
            Trong quá khứ, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp lu“n lu“n là khu vực năng động nhất của nền kinh tế Việt nam, với một tốc độ tăng trưởng hàng năm khoảng 20%. Việc giảm nhanh tỷ lệ đầu tư của khu vực này trong những năm vừa qua kéo theo giảm sút tỷ lệ tăng trưởng của nó và của toàn nền kinh tế. Hậu quả là quá trình suy giảm kinh tế bị đẩy nhanh. Hơn nữa, giảm sút thặng dư cán cân vốn cũng gây ảnh hưởng tiêu cực tới cân b”ng cán cân thanh toán tổng thể, và làm giảm dự trữ ngoại tệ, tác động bất lợi tới quá trình ổn định và tăng trưởng kinh tế dài hạn.
            b) Thương mại quốc tế:
            Cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực đ“ng á đã tạo ra những áp lực mạnh mẽ tới hoạt động xuất nhập khẩu và cán cân thanh toán vãng lai của Việt nam. Về xuất khẩu, một mặt, khủng hoảng châu á làm giảm cầu nội địa của các nước liên quan, dẫn tới giảm cầu nhập khẩu hàng Việt nam của các nước này. Mặt khác, vì các đồng tiền châu á đã bị phá giá mạnh trong khi tỷ giá đồng Việt nam thay đổi ít, sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu của Việt nam đã giảm đáng kể. Hơn nữa, cuộc khủng hoảng còn làm giảm giá nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt nam. Ba nhân tố chính kể trên đã có ảnh hưởng làm giảm rất nhanh tỷ lệ tăng trưởng giá trị xuất khẩu của Việt nam. Thực tế, xuất khẩu của Việt nam chỉ tăng 1,9% năm 1998 so với tăng 26,6% năm 1997.
            Về nhập khẩu, khủng hoảng châu á đã hạ giá nhập khẩu của Việt nam, do đó kích thích nhập khẩu. Hàng nhập đang cạnh tranh khốc liệt với các sản phẩm Việt nam ngay trên thị trường nội địa. gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp vốn đang ở trong giai đoạn đầy khó khăn. Để đấu tranh chống sự bành trướng của hàng nhập, cổ vũ xuất khẩu và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, chính phủ Việt nam đã phải phá giá nội tệ bốn lần kể từ mùa thu năm 1997. Chính phủ cũng đã quay trở lại áp dụng nhiều biện pháp truyền thống trong kiểm tra nhập khẩu như tăng thuế đánh vào hàng nhập, mở rộng chế độ quota, giảm nhập khẩu các mặt hàng kh“ng thiết yếu, thậm chí cấm nhập một số loại hàng hoá mà trong nước đã tự sản xuất được. Kết quả là nhập khẩu năm 1998 giảm -1,1% và nhập khẩu 6 tháng đầu năm 1999 giảm -13%.
            Việc giảm đột ngột các tỷ lệ tăng trưởng xuất nhập khẩu đã kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt nam. Mặc dù thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai đã giảm đáng kể kể từ đầu năm 1997, cán cân thanh toán quốc tế chung đã rơi vào thâm hụt, lần đẩu tiên kể từ ba năm trước. Hậu quả là dự trữ quốc tế, sau một thời kỳ tăng liên tục 1995-1997, đã bắt đầu giảm từ tháng 10 năm 1997. Tuy nhiên sau đó, nhờ một số chính sách kiểm soát nhập khẩu và quản lý ngoại hối, dự trữ quốc tế đi vào thế ổn định. Dù vậy, nguy cơ mất ngoại tệ dự trữ cũng đã gây sức ép rất mạnh làm chính phủ phải điều chỉnh chính sách tỷ giá trong thời gian vừa qua.
            Tóm lại, cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực đã có tác động tiêu cực tới nền kinh tế nước ta trong hai năm gần đây, làm nhân lên những khó khăn nội tại của nền kinh tế và giảm nhanh tỷ lệ tăng trưởng GDP. Điều nghịch lý là những khó khăn hiện nay của nước ta bắt nguồn từ cung lớn hơn cầu trong khi mức sống của người dân còn rất thấp nên càng đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng tìm ra những chính sách kinh tế hiệu quả hơn nh”m sớm thoát khỏi tình hình khó khăn hiện nay.



[1] ICOR được tính theo giá so sánh 1995, theo hai phương pháp sau: 1) ICOR(t)=I(t-1)/DGDP(t); và 2) ICOR(t)=i(t-1)/gGDP(t), trong đó I(t) là tng vn đầu tư năm t, DGDP(t)=GDP(t)-GDP(t-1), i(t-1) là t l đầu tư trên GDP năm t-1, và gGDP(t) là t l tăng trưởng GDP năm t. Vì I(t-1)/ DGDP(t) = [I(t-1)/GDP(t-1)]/[DGDP(t)/GDP(t-1)] = i(t-1)/gGDP(t) nên hai phương pháp trên đều cho cùng mt kết qu.
[2] Xem các phân tích chi tiết trong bài "C“ng nghip Vit nam trong chng đường 15 năm đổi mi: Thành tu và Thách thc", Tp chí Nghiên cu kinh tế s 254, tháng 7/1999.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét