Chủ Nhật, 15 tháng 5, 2011

Tóm tắt kết quả nghiên cứu phân tích và dự báo một số khả năng phát triển kinh tế đến năm 2010 (phần 2)

Bài viết cũ của tôi năm 2004:

Tóm tắt kết quả nghiên cứu phân tích và dự báo
một số khả năng phát triển kinh tế đến năm 2010

MỤC 2: XÂY DỰNG VÀ LỰA CHỌN MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG THỰC NGHIỆM
          I. ƯỚC LƯỢNG CÁC PHƯƠNG TRÌNH TRONG MÔ HÌNH THỰC NGHIỆM - MÔ HÌNH VMEM-2004
        (xem phần cuối bài)
II. MÔ PHỎNG KIỂM TRA ĐỘ TỐT CỦA MÔ HÌNH THỰC NGHIỆM ĐƯỢC XÂY DỰNG Ở TRÊN NHẰM MỤC TIÊU SỬ DỤNG TRONG PHÂN TÍCH VÀ DỰ BÁO TRUNG HẠN
          1) Mô phỏng ex-post để kiểm tra chất lượng mô hình
Tiêu chuẩn sai số trong các mô hình kinh tế lượng của các nước công nghiệp phát triển quy định mô hình sẽ được chấp nhận nếu sai số của các biến tính theo giá trị (giá cố định hoặc giá hiện hành) không quá 5%, và sai số của các biến chênh lệch (ví dụ biến cán cân thương mai = xuất - nhập), các biến tốc độ tăng trưởng (GDP hoặc lạm phát), các biến tỷ lệ phần trăm (tỷ lệ thâm hụt cán cân thương mại trên GDP)... không quá 25-30%. Đối với các nước đang phát triển, do độ bất định cao hơn và chất lượng thống kê không được tốt, tiêu chuẩn trên được nới rộng tương ứng thành 10-15% và 50-60%.

          Đối chiếu với tiêu chuẩn trên, có thể thấy sai số của mô hình VQEM nhìn chung đều chấp nhận được. Phần lớn các biến tính theo giá trị đều có sai số khoảng 1-5%; đặc biệt các biến thực quan trọng như tăng trưởng GDP, tỉêu dùng, xuất nhập khẩu có sai số rất thấp (dưới 2%). Cá biệt có một số biến có sai số cao hơn nhưng những sai số này đều chấp nhận được theo tiêu chuẩn áp dụng đối với mô hình tại các nước đang phát triển. Sai số của các biến chênh lệch cũng nằm trong giới hạn cho phép. Mặt khác, đa số các sai số lớn đều xảy ra trong thời kỳ trước năm 1995 khi nền kinh tế nước ta còn đang trong thời kỳ phát triển không ổn định. Do vậy, chúng tôi cho rằng có thể chấp nhận mô hình trên để đưa vào thực hiện các phân tích, dự báo.
          2) Mô phỏng ex-ante để dự báo giả cho 2 năm 2003-2004 nhằm đánh giá khả năng dự báo của mô hình
Phương pháp phổ biến để kiểm tra khả năng dự báo của mô hình là mô phỏng mô hình trong thời kỳ không được sử dụng để ước lượng mô hình, tức là loại bỏ khỏi chuỗi quan sát những quan sát của thời kỳ gần nhất đã biết trước khi ước lượng mô hình. Ví dụ trong mô hình VMEM-2004 nêu trên, thay vì ước lượng cho giai đoạn 1986-2004, chúng ta chỉ sử dụng số liệu giai đoạn 1986-2002 để ước lượng mô hình; sau khi đã có mô hình, chúng ta sẽ mô phỏng cho thời kỳ 2003-2004, tức là dự báo cho 2 năm này. Kết quả là các dự báo giả (gọi là dự báo giả vì chúng ta đã biết số thực tế đã diễn ra, khác với dự báo tương lai khi chúng ta chưa biết số thực). Bước cuối cùng là so sánh kết quả dự báo qua mô hình với thực tế đã diễn ra xem có khớp không. Nếu kết quả tương đối sát nhau, sai số có thể chấp nhận được, thì mô hình được xem là có khả năng dự báo tốt.
          Áp dụng kỹ thuật mô phỏng ex-ante nêu trên để dự báo giả cho 2 năm 2003-2004, chúng tôi đã thu được những kết quả sau: (i) Kết quả dự báo của mô hình cho 2 năm 2003-2004 hầu như khớp với thực tế; (ii) Kiểm định Chow cho hai phiên bản của mô hình cho thấy đa số các phương trình đều đảm bảo tính thuần nhất. Như vậy, mô hình đã cho các kết quả dự báo khá tốt và có thể được sử dụng để dự báo ngắn và trung hạn.

CHƯƠNG III
SỬ DỤNG MÔ HÌNH VMEM-2004 ĐỂ DỰ BÁO
MỘT SỐ KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN CỦA
NỀN KINH TẾ NƯỚC TA  ĐẾN NĂM 2010
MỤC I: CHUẨN BỊ THÔNG TIN CHO QUÁ TRÌNH DỰ BÁO
1) Dự báo kinh tế thế giới:
a) Triển vọng kinh tế các nước công nghiệp: Nếu như không có những tác động xấu bất ngờ khác trong khi chính sách kích cầu và khôi phục lòng tin của người tiêu dùng và các nhà đầu tư được thực hiện tốt thì kinh tế Mỹ và thế giới có thể sẽ tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng khá trong năm 2005 và kéo dài đến năm 2010 như đã từng xảy ra tiếp theo các cuộc suy thoái kinh tế đã diễn ra trong lịch sử.
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của các đối tác thương mại chính (%), phương án đưa vào dự báo cơ bản
NƯỚC (TÊN BIẾN)
TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG 2005-2010
Nhật (JAP)
2.30
Pháp (FRA)
2.30
Singapo (SING)
4.50
Trung Quốc (CHI)
7.80
Hồng Kông (HON)
4.60
Mã lai xia (MAL)
6.00
Philippin (PHIL)
4.50
Thái Lan (THA)
5.80
In đô nê xia (INDO)
5.40
Đài Loan (TAIW)
4.30
Hàn Quốc (CORE)
4.40
Hoa Kỳ (USA)
3.50
Cam Phu Chia (CAM)
2.40
Nga (RUS)
6.60
Anh (ENG)
2.50
Bỉ (BEL)
2.30
Đức (GERM)
1.80
Hà Lan (HOLAN)
1.80
I ta lia (ITA)
1.90
Thuỵ Sĩ (SUIZ)
2.20
Ôxtrâylia (OXTR)
3.40
b) Triển vọng kinh tế khu vực Đông á: Trong bối cảnh quốc tế và khu vực nêu trên, có thể dự đoán tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế trong khu vực năm 2005 sẽ giảm nhẹ so với năm 2004 để trở về tốc độ tăng trưởng tiềm năng; sau đó, kể từ năm 2006, tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế trong khu vực sẽ phát triển ổn định dựa trên các nhân tố tăng trưởng trung hạn. Căn cứ vào những diễn biến kinh tế đến cuối năm 2004, có thể dự báo kinh tế khu vực châu á năm 2005 sẽ tăng trưởng thấp hơn một chút so với năm 2004 và sẽ tăng trưởng ổn định ở mức tiềm năng đó kể từ năm 2006 đến năm 2010. Số liệu về khả năng tăng trưởng này của các nền kinh tế châu á được nêu trong bảng 3 ở trên.
3) Dự báo các biến ngoại sinh chính sách:         Tỷ lệ tín dụng dành cho khu vực tư nhân được dự báo theo xu thế, theo đó tỷ lệ này tăng liên tục trong giai đoạn 2006-2010 và đạt 73% vào năm 2010. Lãi suất huy động và cho vay nội tệ ngắn hạn (%) năm 2005 sẽ giảm nhẹ so với năm 2004 và sẽ ổn định khoảng 7%/năm trong suốt giai đoạn 2005-2010. Tương tự, lãi suất cho vay danh nghĩa cũng sẽ ổn định trong suốt giai đoạn 2005-2010, dự kiến khoảng 9,5%/năm để có chênh lệch 2,5% so với lãi suất huy động danh nghĩa. Tiêu dùng chính phủ dự kiến sẽ tăng nhanh hơn quá khứ một chút. Tốc độ phá giá tỷ giá đồng VN / USD khoảng 2%/năm. Tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP (DEFRATC) khoảng 4,9-5%. Dự kiến tỷ trọng vốn đầu tư cho khu vực công nghiệp sẽ tăng từ 41% năm 2004 lên 41,4% năm 2005 và 44,8 năm 2010. Ngược lại, tỷ trọng vốn đầu tư cho khu vực nông nghiệp sẽ giảm tương ứng từ 8,9% xuống còn 8,8% và 7,9%, đồng thời tỷ trọng vốn đầu tư cho khu vực dịch vụ cũng tương ứng giảm từ 50,1% xuống 49,9% và 47,3%.
MỤC II: THỬ NGHIỆM DỰ BÁO MỘT SỐ KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ NƯỚC TA GIAI ĐOẠN 2005-2010
1) Dự báo khả năng phát triển trung hạn cơ bản:
          2.1) Về khả năng phát triển năm 2005:
Theo dự báo này, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2005 là 7,5%, tương đương với tốc độ tăng trưởng GDP năm 2004 nhưng thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng dự kiến trong kế hoạch 2005 đã được Quốc hội thông qua là 8,5%. Tốc độ tăng trưởng năm 2005 của khu vực nông nghiệp đạt 3,9%, của khu vực công nghiệp đạt 9,6%, của khu vực dịch vụ đạt 7,2%. Như vậy, so với năm 2004, tốc độ tăng trưởng của khu vực nông nghiệp tăng lên, và của khu vực dịch vụ ổn định, nhưng tốc độ tăng trưởng của khu vực công nghiệp giảm xuống. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2005 đạt 250 nghìn tỷ đồng, tăng 19,1% so với năm 2004.
Về ngân sách, tổng thu ngân sách dự báo theo mô hình sẽ đạt 190,7 nghìn tỷ đồng, tăng 14,5% so với năm 2004, trong đó thu nội địa đạt 107 nghìn tỷ đồng, tăng 16,6%, thu từ thuế xuất nhập khẩu đạt 41,9 nghìn tỷ đồng, tăng 18%, thu từ dầu mỏ đạt 39,7 nghìn tỷ đồng, tăng 6,9%. Tỷ lệ thu ngân sách trên GDP đạt 23%. Tổng chi ngân sách đạt 236,1 nghìn tỷ đồng, tăng 14,8% so với ước thực hiện năm 2004, trong đó chi thường xuyên đạt 123,3 nghìn tỷ đồng, tăng 25,4%, chi đầu tư phát triển đạt 67,7 nghìn tỷ đồng, tăng 9,1%. Tỷ lệ chi ngân sách trên GDP đạt 28,5%.
Tỷ lệ lạm phát trong năm 2005 dự kiến khoảng 7,5%.
Hoạt động ngoại thương tiếp tục phát triển. Dự báo xuất khẩu năm 2005 sẽ đạt khoảng 30,2 tỷ USD, tăng 18% so với năm 2004, trong đó xuất khẩu hàng nông sản đạt khoảng 7,6 tỷ USD, xuất khẩu hàng công nghiệp nặng và khoáng sản đạt khoảng 9,7 tỷ USD, xuất khẩu hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp khoảng 13 tỷ USD.
Nhập khẩu năm 2005 dự báo qua mô hình sẽ đạt 33,6 tỷ USD, tăng  13,3% so với năm 2004. Thâm hụt ngoại thương sẽ giảm từ khoảng 4,1 tỷ USD năm 2004 xuống còn 3,4 tỷ USD năm 2005. Tỷ lệ thâm hụt ngoại thương trên GDP sẽ giảm từ 9,1% xuống còn 6,6%.
Như vậy, nhìn chung phương án dự báo năm 2005 cho thấy tình hình kinh tế năm 2005 tương đối khả quan vì hầu hết các chỉ tiêu đều trong giới hạn chấp nhận được hoặc an toàn mặc dù tốc độ tăng trưởng GDP không đạt mục tiêu do Quốc hội đề ra và có thể sẽ thấp hơn một chút so với năm 2004.
          2.2) Về khả năng phát triển từ năm 2006 đến năm 2010 theo phương án cơ bản:
a) Về dân số và lao động: trong kế hoạch 5 năm tới, dân số nước ta sẽ tăng trưởng với tốc độ 1,23%/năm; đến năm 2010 quy mô dân số sẽ đạt 88,3 triệu người. Nguồn cung lao động dự báo sẽ tăng khoảng 2,08%/năm. Đến năm 2010, nước ta sẽ có 55,6 triệu người trong độ tuổi lao động.
Tốc độ thu hút lao động vào làm việc trong nền kinh tế sẽ tăng nhanh, dự báo khoảng 3,75%/năm, trong đó lao động trong khu vực dịch vụ tăng nhanh nhất, khoảng 8,7%/năm, tiếp đến là lao động trong khu vực công nghiệp, khoảng 4,7%, cuối cùng là lao động trong khu vực nông nghiệp, khoảng 1,25%. Đến năm 2010, lao động nông nghiệp chỉ còn chiếm 53,4% trong tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế (năm 2005 là 60,3%), lao động công nghiệp chiếm 16,6% (năm 2005 là 15,9%), lao động dịch vụ chiếm 30% (năm 2005 là 23,8%).
Số người trong độ tuổi lao động nhưng chưa giải quyết được việc làm đã giảm từ 6,03 triệu người năm 2005 xuống 2,6 triệu người năm 2010. Tỷ lệ số người trong độ tuổi lao động nhưng chưa giải quyết được việc làm trên tổng số người trong độ tuổi lao động tương ứng giảm từ 13% xuống 4,6%.
b) Về sản xuất và đầu tư: Tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2006-2010 trung bình khoảng 8-8,1%/năm, tức là cao hơn đáng kể so với kết quả thực hiện trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 (7,4-7,5%). Tốc độ tăng trưởng GDP có xu hướng tăng dần qua các năm nhưng tốc độ tăng không quá nhanh, năm 2006 là 7,7%, năm 2007 là 7,8%, năm 2008 là 8,05%, năm 2009 là 8,3% và năm 2010 là 8,5%; đến năm 2010 tốc độ tăng trưởng GDP vẫn chưa lên đến mức cao nhất đã đạt  được trong những năm giữa thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Mặt khác, khác với những giai đoạn trước trong đó tốc độ tăng trưởng GDP thường không ổn định , tốc độ tăng trưởng GDP trong 5 năm tới sẽ tương đối ổn định, phù hợp với dự báo xu thế chung của thế giới và phù hợp với tình hình đã diễn ra trong nền kinh tế nước ta 5 năm 2001-2005.
          Tốc độ tăng trưởng trong 5 năm tới của khu vực nông nghiệp trung bình đạt 3,8%/năm, của khu vực công nghiệp đạt 10,4%, của khu vực dịch vụ đạt 7,6%. Như vậy tăng trưởng của nền kinh tế nước ta trong 5 năm tới theo phương án cơ bản sẽ dựa chủ yếu vào phát triển khu vực công nghiệp và khu vực dịch vụ trong khi khu vực nông nghiệp sẽ tăng trưởng chậm lại. Đặc biệt, đóng góp của khu vực dịch vụ vào tăng trưởng chung toàn nền kinh tế sẽ tăng mạnh trong kế hoạch 5 năm tới vì so với thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005, đây là ngành duy nhất có tốc độ tăng trưởng tăng, đồng thời mức độ tăng cũng khá lớn, từ 6,9%/năm lên 7,6%/năm. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong 5 năm 2006-2010 dự báo đạt 2400 nghìn tỷ đồng, tăng 21,7%/ năm.
c) Về ngân sách chính phủ: Tổng thu ngân sách trong 5 năm 2006-2010 dự báo theo mô hình sẽ đạt 1697 nghìn tỷ đồng, tăng 21,1%/năm, trong đó thu nội địa đạt 1087 nghìn tỷ đồng, tăng 26,6%/năm, thu từ thuế xuất nhập khẩu đạt 295 nghìn tỷ đồng, tăng 10,3%/năm, thu từ dầu mỏ đạt 305 nghìn tỷ đồng, tăng 14,6%/năm. Tỷ lệ thu ngân sách trên GDP đạt 20,8%.
Tổng chi ngân sách trong 5 năm 2006-2010 theo dự báo của mô hình sẽ đạt 2142 nghìn tỷ đồng, tăng 21,9%/năm, trong đó chi thường xuyên đạt 1048 nghìn tỷ đồng, tăng 19,5%/năm, chi đầu tư phát triển đạt 714 nghìn tỷ đồng, tăng 27,7%. Tỷ lệ chi ngân sách trên GDP đạt 26,3%.
d) Về tiền tệ, giá cả: tỷ lệ lạm phát trong  5 năm 2006-2010 sẽ tiếp tục xu hướng tăng lên đã hình thành trong những năm gần đây. Nếu như theo dự báo của mô hình, tỷ lệ lạm phát năm 2005 chỉ là 7,5% thì dự báo năm 2006 sẽ tăng lên 8,5%, năm 2007 lên 9,7%, năm 2008 lên 11%, năm 2009 lên 12,2% và năm 2010 lên 13,5%. Tính chung, tỷ lệ lạm phát trung bình 5 năm 2006-2010 đạt 11%. Như vậy, tỷ lệ lạm phát trong kế hoạch 5 năm tới có thể sẽ vượt khỏi tầm kiểm soát, nhất là trong các năm từ 2008 trở đi.
e) Hoạt động ngoại thương trong 5 năm tới tiếp tục phát triển mạnh. Dự báo xuất khẩu năm 2010 sẽ đạt xấp xỉ 58 tỷ USD; tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm sẽ đạt 232 tỷ USD, tăng xấp xỉ 14%/năm, trong đó xuất khẩu hàng nông sản đạt khoảng 52,8 tỷ USD, tăng 11,3%/năm, xuất khẩu hàng công nghiệp nặng và khoáng sản đạt khoảng 79,6 tỷ USD, tăng 17%/năm, xuất khẩu hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp khoảng 100 tỷ USD, tăng 13%/năm. Nhập khẩu năm 2010 dự báo qua mô hình sẽ đạt xấp xỉ 77 tỷ USD. Tính chung 5 năm, kim ngạch nhập khẩu đạt 283 tỷ USD, tăng 18%/năm. Thâm hụt ngoại thương sẽ tăng mạnh từ khoảng 3,4 tỷ USD năm 2005 lên 3,9 tỷ USD năm 2006, 5,2 tỷ USD năm 2007, 7,7 tỷ USD năm 2008, tiếp đến tăng vọt tới 12 tỷ USD năm 2009 và gần 19 tỷ USD năm 2010. Tỷ lệ thâm hụt ngoại thương trên GDP tương ứng cũng tăng từ 6,6% năm 2005 (tỷ lệ thâm hụt ngoại thương trên GDP thực tế là 11%) lên 13% năm 2010. Tuy vậy, tỷ lệ này vẫn chưa phải là cao so với một số năm trước đây.
Như vậy, cũng như đối với lạm phát, những vấn đề phát sinh cần tập trung xử lý chủ yếu sẽ xảy ra vào cuối kỳ kế hoạch 5 năm, tức là khi các phi cân bằng trong nền kinh tế phát triển lên tới mức giới hạn, tạo ra những biến động lớn để cơ cấu tự phát lại nền kinh tế.
Tóm lại, nhìn chung phương án dự báo cơ bản các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô giai đoạn 2006-2010 cho thấy tình hình phát triển kinh tế 5 năm tới sẽ khá khả quan vì hầu hết các chỉ tiêu đều trong giới hạn chấp nhận được hoặc an toàn, tốc độ tăng trưởng GDP khá cao... Tuy nhiên, cần lưu ý vấn đề kiểm soát tỷ giá và cán cân ngoại thương vì nếu không, tình hình vào những năm cuối kỳ kế hoạch có thể xấu đi rất nhanh.
          3) Phương án dự báo phát triển trung hạn lạc quan:
Phương án dự báo lạc quan được xây dựng dựa trên những mặt thuận đặc biệt có thể diễn ra trong và ngòai nước trong kế hoạch 5 năm tới, đặc biệt là chất lượng tăng trưởng sẽ cao hơn so với với giai đoạn vừa qua. Kết quả dự báo cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP trong 5 năm 2006-2010 trung bình khoảng 9,2%/năm, tức là cao hơn đáng kể so với kết quả dự báo trong phương án cơ bản. Kết quả dự báo cũng cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP có xu hướng tăng dần qua các năm, năm 2005 là 8,6%, năm 2006 là 8,7%, năm 2007 là 8,9%, năm 2008 là 9,2%, năm 2009 là 9,5% và năm 2010 là 9,75%. Đến năm 2009-2010 tốc độ tăng trưởng GDP đã đạt được mức cao nhất đã đạt  được trong những năm giữa thập kỷ 90 của thế kỷ trước (9,5%).
          Tăng trưởng trong 5 năm tới của khu vực nông nghiệp trung bình đạt 4,3%/năm, của khu vực công nghiệp đạt 12,3%, của khu vực dịch vụ đạt 8%. Như vậy so với phương án cơ bản, trong phương án này, tăng trưởng của nền kinh tế nước ta trong 5 năm tới sẽ dựa chủ yếu vào đẩy nhanh sự phát triển khu vực công nghiệp trong khi khu vực dịch vụ và khu vực nông nghiệp đều sẽ tăng trưởng cao hơn, song không quá mạnh. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong 5 năm 2006-2010 dự báo đạt 2659 nghìn tỷ đồng, tăng 24,3%/ năm.
Tổng thu ngân sách trong 5 năm 2006-2010 dự báo theo mô hình sẽ đạt 1738 nghìn tỷ đồng, tăng 20,9%/năm. Tỷ lệ thu ngân sách trên GDP đạt 20,7%. Tổng chi ngân sách trong 5 năm 2006-2010 theo dự báo của mô hình sẽ đạt 2196 nghìn tỷ đồng, tăng 21,7%/năm. Tỷ lệ chi ngân sách trên GDP đạt 26,1%. Tỷ lệ lạm phát năm 2005 là 7,5%, dự báo năm 2006 sẽ tăng lên 8,3%, năm 2007 lên 11%, năm 2008 lên 12,6%, năm 2009 lên 14% và năm 2010 lên 15,5%. Tính chung, tỷ lệ lạm phát trung bình 5 năm 2006-2010 đạt 12,4% trong khi dự báo theo phương án cơ bản là 11%.
Xuất khẩu năm 2010 sẽ đạt xấp xỉ 76,8 tỷ USD; tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm sẽ đạt 281 tỷ USD, tăng 19,8%/năm. Nhập khẩu năm 2010 dự báo qua mô hình sẽ đạt xấp xỉ 89,7 tỷ USD. Tính chung 5 năm, kim ngạch nhập khẩu đạt 314 tỷ USD, tăng 21,7%/năm. Thâm hụt ngoại thương sẽ tăng mạnh từ khoảng 3,4 tỷ USD năm 2005 lên 12,9 tỷ USD năm 2010. Tuy nhiên, do GDP tăng trưởng mạnh nên tỷ lệ thâm hụt ngoại thương trên GDP sẽ giảm từ 6,3% năm 2005 xuống còn 4,9% năm 2007, sau đó sẽ tăng dần lên tới 8,9% năm 2010. Như vậy trong phương án tăng trưởng cao, tỷ lệ thâm hụt ngoại thương trên GDP vẫn nằm trong tầm chấp nhận được.
Tóm lại, nhìn chung phương án dự báo lạc quan về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô giai đoạn 2006-2010 cho thấy tình hình phát triển kinh tế 5 năm tới sẽ rất khả quan vì hầu hết các chỉ tiêu đều trong giới hạn chấp nhận được hoặc an toàn, tốc độ tăng trưởng GDP khá cao... Tuy nhiên, tương tự như trong phương án dự báo cơ bản, cần lưu ý vấn đề kiểm soát tỷ giá và cán cân ngoại thương vì nếu không, tình hình vào những năm cuối kỳ kế hoạch có thể xấu đi rất nhanh.
          4) Phương án dự báo phát triển trung hạn bi quan:
Phương án dự báo bi quan được xây dựng ngược với phương án lạc quan nêu trên. Theo phương án này, thay vì các chỉ tiêu đầu vào tích cực hơn so với phương án dự báo cơ bản như đã thực hiện ở trên, chúng tôi giả định các chỉ tiêu này sẽ ở mức bất lợi hơn đối với tăng trưởng so với phương án dự báo cơ bản. Đặc biệt, trong phương án này, giả định chính phủ sẽ giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP xuống còn 4% để phòng ngừa nguy cơ lạm phát. Khi đó, kết quả dự báo một số chỉ tiêu chính như sau:
Tốc độ tăng trưởng GDP trong 5 năm 2006-2010 trung bình khoảng 7,4%/năm, tức là chỉ ngangvới kết quả đạt được trong thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005 và thấp hơn đáng kể so với kết quả dự báo trong phương án cơ bản. Cụ thể tốc độ tăng trưởng GDP có xu hướng tăng dần qua các năm, năm 2006 là 7%, năm 2007 là 7,2%, năm 2008 là 7,4%, năm 2009 là 7,6% và năm 2010 là 7,8%.
          Tốc độ tăng trưởng trong 5 năm tới của khu vực nông nghiệp trung bình đạt 3,6%/năm, của khu vực công nghiệp đạt 9,5%, của khu vực dịch vụ đạt 7%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong 5 năm 2006-2010 dự báo đạt 2180 nghìn tỷ đồng, tăng 19,3%/ năm.
Tổng thu ngân sách trong 5 năm 2006-2010 dự báo theo mô hình sẽ đạt 1496 nghìn tỷ đồng, tăng 16,2%/năm. Tỷ lệ thu ngân sách trên GDP trung bình đạt 21,4%. Tổng chi ngân sách trong 5 năm 2006-2010 theo dự báo của mô hình sẽ đạt 1814 nghìn tỷ đồng, tăng 16,7%/năm. Tỷ lệ chi ngân sách trên GDP trung bình đạt 26%. Tỷ lệ lạm phát năm 2005 là 6,5%, dự báo năm 2006 sẽ tăng lên 7,1%, năm 2007 lên 8%, năm 2008 lên 9%, năm 2009 lên 10,1% và năm 2010 lên 11,2%. Tính chung, tỷ lệ lạm phát trung bình 5 năm 2006-2010 đạt 9% trong khi dự báo theo phương án cơ bản là 11%.
Xuất khẩu năm 2010 sẽ đạt xấp xỉ 60 tỷ USD; tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm sẽ đạt 234 tỷ USD, tăng 14,9%/năm. Nhập khẩu năm 2010 dự báo qua mô hình sẽ đạt xấp xỉ 72,2 tỷ USD. Tính chung 5 năm, kim ngạch nhập khẩu đạt 270 tỷ USD, tăng 16,8%/năm. Thâm hụt ngoại thương sẽ tăng mạnh từ khoảng 3,5 tỷ USD năm 2005 lên 10,3 tỷ USD năm 2010. Tỷ lệ thâm hụt ngoại thương trên GDP sẽ tăng từ 6,6% lên 11,2%.
Như vậy, nhìn chung phương án dự báo thấp cho giai đoạn 5 năm 2006-2010 cho thấy tình hình kinh tế trong kế hoạch 5 năm vẫn tương đối khả quan vì hầu hết các chỉ tiêu đều trong giới hạn chấp nhận được hoặc an toàn mặc dù tốc độ tăng trưởng GDP có thể sẽ không đạt các mục tiêu cao hơn do Quốc hội đề ra trong kế hoạch 5 năm tới.
 KẾT LUẬN CHUNG VỀ QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG
MÔ HÌNH VMEM-2004 VÀ MỘT SỐ NHẬN XÉT
TRÊN CƠ SỞ CÁC DỰ BÁO RÚT RA TỪ MÔ HÌNH
Đề tài "Dự báo một số khả năng phát triển kinh tế đến năm 2010 bằng mô hình kinh tế lượng" được thực hiện tại Vụ Tổng hợp Kinh tế quốc dân, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhằm thiết thực thực hiện chủ trương tăng cường sử dụng các công cụ hiện đại, trong đó có công cụ toán kinh tế và mô hình hoá, vào xây dựng và điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm tới của lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã đi từ phân tích những mối quan hệ giữa các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của nền kinh tế trong chương 1 tới phác thảo và thử nghiệm xây dựng một mô hình kinh tế lượng quy mô nhỏ nhỏ với chuỗi số liệu năm trong chương 2; cuối cùng chúng tôi đã sử dụng mô hình xây dựng được để thực hiện 3 phương án dự báo cơ bản trong chương 3.
Các phân tích trong chương 1 đã chỉ ra rằng quá trình tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế nước ta trong gần 20 năm qua đã diễn ra qua hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, nguồn gốc chính của những thành tựu kinh tế vĩ mô trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh là tăng trưởng đầu tư, trong đó đầu tư vừa đóng vai trò nhân tố cung, vừa đóng vai trò nhân tố cầu. Trong giai đoạn 2, đặc biệt là trong những năm gần đây, những nhân tố cầu như tiêu dùng và xuất khẩu cũng đóng vai trò khá quan trọng, trong đó nổi bật là vai trò của những nhân tố cầu đã tăng lên rất mạnh.
Tuy nhiên, nhìn về trung hạn, các nhân tố cung vẫn đóng vai trò quyết định, do đó cần phải đi theo tiếp cận của mô hình cung, trong đó có bổ sung một số nhân tố cầu. Loại mô hình này cũng đã và đang được xây dựng tại nhiều nước đang phát triển do đặc điểm của các nền kinh tế đo là các nhân tố cung và cầu tác động xen kẽ nhau; các mô hình này thường được gọi là mô hình hỗn hợp nửa cung nửa cầu. Mô hình ở đây cũng là một dạng của mô hình nửa cung nửa cầu nhưng vai trò của nhân tố cung quan trọng hơn.
Quá trình xây dựng mô hình kinh tế lượng trong chương 2 cho thấy hầu hết các quan hệ kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế nước ta đều phù hợp với lập luận trong các lý thuyết kinh tế thị trường và phù hợp với những phân tích thực hiện trong chương 1. Điều này chứng tỏ về mặt trung hạn, nền kinh tế thị trường ở nước ta, dù còn nhiều méo mó và chưa hoàn chỉnh, nhưng cũng đã thực sự vận hành trên cơ sở những quy luật khách quan chung của cơ chế kinh tế thị trường như ở các nền kinh tế thị trường khác.
Lô gíc cơ bản của mô hình cũng tương tự như những phân tích trong chương 1. Dân số nước ta tiếp tục tăng trưởng theo xu thế với tốc độ tăng trưởng giảm dần. Tốc độ tăng trưởng nguồn cung lao động tiếp tục được duy trì ở mức cao do tác động của bùng nổ dân số giữa những năm 80 của thế kỷ trước. Thu hút lao động vào các ngành và toàn nền kinh tế phụ thuộc vào nhu cầu của nền kinh tế (khả năng tăng trưởng kinh tế) nhưng cũng tác động trở lại tăng trưởng kinh tế.
Trong khối thực, huy động vốn vào hệ thống ngân hàng phụ thuộc vào lãi suất huy động và xu thế đã hình thành trong quá khứ nhưng nhân tố xu thế có vai trò quyết định; ảnh hưởng của lãi suất không lớn. Nguồn cung tín dụng cho nền kinh tế phụ thuộc vào khả năng huy động vốn của hệ thống ngân hàng và tích luỹ trước đây của nền kinh tế, trong đó chỉ tiêu cuối cùng này được đại diện bằng tổng sản phẩm trong nước năm trước. Đầu tư của khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân phụ thuộc vào nguồn tín dụng, lãi suất, chi ngân sách Nhà nước cho đầu tư, quy mô nền kinh tế và xu thế đã hình thành trong quá khứ.
Tăng trưởng của các khu vực kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào hai nhân tố là tổng số lao động và tổng tích luỹ tài sản cố định, trong đó tổng tích luỹ tài sản cố định được đại diện bằng tổng vốn đầu tư cộng dồn từ năm 1990 đến năm tính toán. Ngoài ra, tăng trưởng của khu vực nông nghiệp còn phụ thuộc vào xu thế quá khứ, phản ánh sức ỳ của sản xuất nông nghiệp; tăng trưởng của khu vực công nghiệp còn phụ thuộc vào nhập khẩu đầu vào phục vụ sản xuất...
Về tiêu dùng, trong khi tiêu dùng chính phủ là biến ngoại sinh, phụ thuộc hoàn toàn vào quyết định chính sách của chính phủ thì tiêu dùng tư nhân phụ thuộc vào thu nhập của năm trước (GDP trừ đi thuế) và vào xu hướng tiêu dùng đã hình thành trong quá khứ hay thu nhập mang tính dài hạn (thu nhập thường xuyên).
Trong khối tài chính tiền tệ, về hoạt động ngân sách, tổng thu ngân sách gồm thu nội địa, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu và thu từ dầu thô, trong đó thu nội địa hàng năm phụ thuộc vào quy mô của nền kinh tế; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu phụ thuộc vào kim ngạch nhập khẩu tính theo ngoại tệ, tỷ giá và xu thế; thu từ dầu thô phụ thuộc vào khối lượng, giá cả xuất khẩu dầu và tỷ giá.
Tổng chi ngân sách được xác định căn cứ vào tổng thu ngân sách và tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP do Quốc hội thông qua (biến cuối này là biến ngoại sinh). Tổng chi ngân sách thường xuyên phụ thuộc vào tổng thu ngân sách cùng năm. Do đó tổng chi ngân sách cho mục đích đầu tư phát triển là phần còn lại của tổng chi ngân sách sau khi đã chi cho tiêu dùng thường xuyên và chi trả nợ, viện trợ chính phủ. Tỷ lệ lạm phát giá hàng tiêu dùng phụ thuộc vào tốc độ tăng giá hàng nhập khẩu tính theo ngoại tệ, biến động của tỷ giá, tốc độ tăng trưởng tổng cung tiền tệ, tỷ lệ lạm phát năm trước và lãi suất huy động tiền gửi ngắn hạn.
Về hoạt động ngoại thương, trong khi xuất khẩu chủ yếu phụ thuộc vào nhu cầu nhập khẩu hàng Việt Nam của các nước bạn hàng chính và khả năng cạnh tranh về giá cả của hàng xuất khẩu nước ta thì nhập khẩu phụ thuộc chủ yếu vào quy mô của nền kinh tế (GDP) và quan hệ cánh kéo giá trong nước và quốc tế đối với hàng nhập khẩu và thay thế nhập khẩu. Các yếu tố đầu tư, tiêu dùng, xuất và nhập khẩu tham gia vào phương trình cân bằng tổng sản phẩm trong nước theo giá cố định và theo giá hiện hành, và chính quy mô của nền kinh tế (GDP) này đến lượt mình lại trở thành tổng cầu và tác động tới các chỉ tiêu đầu tư, tiêu dùng, xuất và nhập khẩu, và các chỉ tiêu tài chính tiền tệ trong vòng tiếp sau.
Sử dụng mô hình để dự báo cho thấy nhìn chung nền kinh tế nước ta sẽ tiếp tục tăng trưởng khả quan trong kế hoạch 5 năm tới. Tốc độ tăng trưởng GDP có thể đạt từ 7,4%/năm (phương án bi quan) đến 9,2%/năm (phương án lạc quan) tuỳ theo môi trường thuận lợi hay khó khăn, chính sách tài chính tiền tệ mở rộng hay thắt chặt, và nhất là chất lượng tăng trưởng được cải thiện nhiều hay ít.
Phương án dự báo cơ bản cho thấy nếu như tình hình kinh tế thế giới tiếp tục được cải thiện và tăng trưởng mạnh trong kế hoạch 5 năm tới trong khi các chính sách kích cầu và kích cung (tuỳ từng mặt) trong nước được triển khai thuận lợi và có hiệu quả theo đúng dự kiến của Chính phủ thì tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta sẽ tăng khá nhanh trong 5 năm 2006-2010; hơn nữa, tốc độ tăng trưởng kinh tế có khả năng sẽ liên tục tăng lên qua các năm như đã diễn ra từ năm 1999 đến nay.
Xuất khẩu dự báo cũng sẽ tăng trưởng khá mạnh nhưng do nhập khẩu tăng trưởng nhanh hơn nên tỷ lệ thâm hụt ngoại thương trên GDP cũng sẽ tăng lên. Tuy nhiên, mức tăng đến năm 2010 vẫn chưa vượt qua những mức trước đây và vẫn nằm trong tầm chấp nhận được mặc dù phải chú ý phân tích để kịp thời có thể điều chỉnh chính sách nhằm ngăn ngừa cuộc khủng hoảng cán cân thanh toán quốc tế.
Đáng lo ngại là tỷ lệ lạm phát sẽ tăng lên với tốc độ ngày càng nhanh và từ năm 2008 có thể sẽ vượt 10% tức là nằm ngoài tầm kiểm soát của Chính phủ. Do đó cũng như đối với cán cân ngoại thương, cần chú ý theo dõi biến động của tỷ lệ lạm phát, phân tích kỹ hơn nguyên nhân của hiện tượng này ở nước ta để đề ra các giải pháp hữu hiệu phòng ngừa ngay từ năm tới.
Do các chỉ tiêu dự báo trong phương án dự báo cơ bản là khá tốt nên ngay cả khi tình hình kinh tế thế giới có xấu hơn dự kiến và việc thực hiện các chính sách trong nước, kể cả các chính sách nhằm tăng cường chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, có không đạt được mục tiêu đầy tham vọng đặt ra, thì nền kinh tế nước ta vẫn có khả năng đạt tốc độ tăng trưởng khoảng trên 7%/năm, trong khi tỷ lệ lạm phát giảm về mức ôn hoà hơn. Ngược lại, nếu như môi trường trong nước và quốc tế thuận lợi hơn, thì tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể cao hơn 9%/năm trong khi tỷ lệ lạm phát trung bình chỉ lên tới 12,4%/năm.
Kết luận chung: Các dự báo từ mô hình cho thấy kinh tế nước ta trong kế hoạch 5 năm 2006-2010 sẽ tiếp tục phát triển mạnh và các chỉ tiêu ổn định vĩ mô đều cơ bản nằm trong tầm kiểm của Chính phủ.

KẾT QUẢ ƯỚC LƯỢNG MÔ HÌNH VÀ DANH SÁCH CÁC BIẾN
1) Ước lượng mô hình thực nghiệm:
Kết quả ước lượng các phương trình như sau:
1. POPU = 1796.9031 + 0.9912753169*POPU(-1)
2. LOG(LABOS) = 1.663303235*LOG(POPU) - 8.019183274
3. LOG(LABAG/GDPAG) = -0.5543760889 - 0.02488244492*T
4. LOG(LABIN/GDPIN) = -2.177779996 - 0.05331970562*T
5. LOG(LABSE/GDPSE) = -2.091708618 - 0.0932736886*T + 0.003280662512*(T*T)
6. LABOD = 1*LABAG + 1*LABIN + 1*LABSE
7. UNLAB = 1*(LABOS-LABOD)
8. UNRAT = 1*(UNLAB*100/LABOS)
9. LOG(CAMOBI) = 0.00653092013*INTIN + 1.015295352*LOG(CAMOBI(-1))
10. LOG(CREDO) = -1.167988372 + 0.4198878416*LOG(GDPCU(-1)) + 0.6517366253*LOG(CAMOBI)
11. CREPRI = 1*((100-ALFA)*CREDO/100)
12. CREPU = 1*(ALFA*CREDO/100)
13. LOG(INVES) = -22.74722946 - 0.495945628*LOG(CREDO/PGDP) + 3.024518356*LOG(GDP)
14. LOG(IG) = 1.357485239 + 0.4139353249*LOG(EXINV/PRICE*100) + 0.5068224878*LOG(CREPU/PRICE*100) - 0.005820097618*INTOUT(-1)
15. LOG(IP) = 0.1619432489*LOG(GDP) + 0.7832755643*LOG(IP(-1)) + 0.3357645089*D92 + 0.0170686084*T
16. FDI = INVES - IG - IP
17. IAG=1*INVES*ALFIAG/100
18. IIN=1*INVES*ALFIIN/100
19. ISE=1*INVES-1*IAG-1*IIN
20. TIAG=1*TIAG(-1)+1*IAG
21. TIIN=1*TIIN(-1)+1*IIN
22. TISE=1*TISE(-1)+1*ISE
23. LOG(GDPAG) = 0.01731218872*LOG(TIAG) + 0.1022091408*LOG(LABAG) + 0.8915941451*LOG(GDPAG(-1)) + 0.03431848855*D92
24. LOG(GDPIN) = 1.329778324 + 0.07539897137*LOG(TIIN) + 0.03248103121*LOG(IMUS) + 0.08352420735*LOG(LABIN) + 0.7197604952*LOG(GDPIN(-1))
25. LOG(GDPSE) = 0.03933018512*LOG(TISE(-1)) + 0.1344086279*LOG(LABSE) + 0.7108870275*LOG(GDPSE(-1)) + 1.719528956 - 0.03534966419*D99
26. GDP = 1*GDPIN + 1*GDPAG + 1*GDPSE
27. GGDP=(GDP/GDP(-1)-1)*100
28. GDPCU = 1*(GDP*PGDP/100)
29. ACCUM = 1*GDP + 1*IMCON - 1*CONSO - 1*EXCON - 1*SAI
30. CONCU = 1*CONPCU + 1*CONGCU
31. CONGCU = 1*(CONGO*PCONGO/100)
32. CONPCU = 1*(CONPRI*PCONPRI/100)
33. LOG(CONPRI) = 0.1046475293*LOG(GDP-REVGO/PGDP*100) + 0.8981188733*LOG(CONPRI(-1))
34. CONSO = 1*CONPRI + 1*CONGO
35. INVCU = 1*(INVES*PINVES/100)
36. ACCU = 1*(ACCUM*PACCUM/100)
37. EXCU = 1*(EXCON*PEXCON/100)
38. IMCU = 1*(IMCON*PIMCON/100)
39. SAICU = 1*GDPCU + 1*IMCU - 1*ACCU - 1*CONCU - 1*EXCU
40. REVGO = 1*REVDO + 1*REXIM + 1*ROIL + 1*ROTH
41. LOG(REVDO) = -5.404412005 + 1.324738633*LOG(GDPCU) - 0.06026030289*T - 0.3078569477*D99
42. LOG(REXIM) = 1.964187459 + 0.8133772735*LOG(REXIM(-1)) + 0.5418501409*D93 + 0.4785318154*D86 - 0.3279998883*D91
43. LOG(ROIL) = 0.4740337988*LOG(OILVO*POILUS*NER/1000) + 0.104201098*T - 0.5118140271*D91
44. EXPGO = 1*REVGO+1*DEFBU
45. LOG(EXPPM) = 0.9791304483*LOG(REVGO) - 0.009201389038*T - 0.1565007048*D92
46. EXINV = 1*EXPGO - 1*EXPPM - 1*PAYIN - 1*EXOTH
47. DEFBU = 1*(DEFRA*GDPCU/100)
48. DEFRA=1*DEFRATC+0.55
49. LOG(M2) = 0.6385878327*LOG(CREDO) + 0.8342548865 + 0.3161320497*LOG(M2(-1))
50. GM2 = 1* (M2/M2(-1) - 1)*100
51. INFLA = 0.4365296331*GM2 + 0.1550669423*EXROW + 0.2655803537*INTIN(-1) + 0.2769199525*INPIM - 20.39516098 + 0.1731523221*INFLA(-1) + 0.03808860694*(T*T) + 8.686444187*D98
52. PRICE=1*PRICE(-1)*(100+INFLA)/100
53. LOG(PGDP) = 0.7794870241*LOG(PRICE) + 0.01908117257*T + 0.1913150619*LOG(PGDP(-1)) - 0.1478195386*D90 - 0.08973151536*D91
54. LOG(PACCUM) = 0.7101811856*LOG(PRICE) + 0.01784226275*T + 0.2605620951*LOG(PACCUM(-1)) - 0.17492026*D90
55. LOG(PCONGO) = 0.7472136407*LOG(PRICE) + 0.02430653613*T + 0.2082324756*LOG(PCONGO(-1)) - 0.2173369703*D91
56. LOG(PCONPRI) = 0.7729273217*LOG(PRICE) + 0.02447977026*T + 0.1822129405*LOG(PCONPRI(-1))
57. LOG(PEXCON) = -0.7331264727 + 1.023299296*LOG(PRICE) + 0.1440076452*LOG(PEXCON(-1)) + 0.1810115659*D89 + 0.1446581791*D00
58. LOG(PIMCON) =  -0.9702509993 + 1.121803737*LOG(PRICE) + 0.3163140293*D89 - 0.2764332513*D99 + 0.09477896085*LOG(PIMCON(-1))
59. NER = 1*(NER(-1)*(100+DEVAL)/100)
60. EXRAT = 0.9999999612*(NER/109.5833)
61. QE = 1*((17.95*JAP+2.75*FRA+9.23*SING+7.27*CHI+3.03*HON+
1.95*MAL+2.47*PHIL+2.17*THA+1.88*INDO+6.29*TAIW+3.57*CORE+7.2*USA+1.14*CAM+1.16*RUS+3.01*ENG+1.79*BEL+4.63*GERM+2.51*HOLAN+1.36*ITA+1.63*SUIZ+5.25*OXTR)/88.24)
62. GGDPAG=(GDPAG/GDPAG(-1)-1)*100
63. LOG(EXAG) = 0.2269345593*LOG(EXRAT(-1)*PEX(-1)/PRICE(-1)) + 0.7465557719*LOG(IMUS) + 0.01483428052*GGDPAG + 0.07842512141*D99 - 0.07857817847*D02
64. LOG(EXLIN) = 0.0490535346*QE + 0.2027608296*LOG(EXRAT*PEX/PRICE) + 0.88967368*LOG(EXLIN(-1)) - 1.326292309*D91 - 0.3789115514*D92
65. LOG(EXHIN) = -14.24295721 + 1.826284873*LOG(GDPIN) + 0.3291863495*LOG(EXRAT(-1)*PEX(-1)/PRICE(-1)) + 0.3263838796*D00
66. EXUS = 1*EXHIN + 1*EXLIN + 1*EXAG
67. LOG(IMUS) = -0.6932101881*LOG(EXRAT(-1)*PIM(-1)/PRICE(-1)) + 0.6596282219*LOG(EXUS) + 0.526783145*LOG(CONSO+ACCUM) + 0.2180234078*D88 - 0.1431164338*D99
68. TRABA = 1*IMUS - 1*EXUS
69. TRAGDP = 1*(TRABA*NER/GDPCU/10)
70. LOG(EXCON) = 7.201351992 + 0.2132191938*LOG(EXUS*NER/10/PRICE) + 0.2076006969*T - 0.004178027955*(T*T) - 0.6686266953*D88 - 0.2276086747*D87
71. LOG(IMCON) = 8.433319481 + 0.1597317298*LOG(IMUS*NER/10/PRICE) + 0.1097814799*T + 0.1402096659*D96 - 0.3422141612*D88
72. PIM = 1*(PIM(-1)*(100+INPIM)/100)
73. PEX = 1*(PEX(-1)*(100+INPEX)/100)
74. LOG(PINVES) = -4.294534773 + 1.987441401*LOG(PRICE) - 0.03778398778*T - 0.164744303*D92
75. LOG(PAYIN) = 0.9709301309*LOG(EXPGO(-1)) - 0.7004730604*D94 + 0.3801842035*D95 - 1.56207556
2) Danh sách các biến trong mô hình thực nghiệm
          2.1) Các biến nội sinh
          Để tiện theo dõi, các tên biến dưới đây được sắp xếp theo thứ tự của các phương trình trong mô hình, không theo thứ tự A, B, C. Đơn vị tính của các chỉ tiêu giá trị là tỷ đồng hoặc triệu USD trừ những trường hợp ngoại lệ sẽ được nêu trực tiếp trong cụm từ giải thích tên biến.
POPU                    : Dân số, nghìn người
LABOS       : Số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động,
  nghìn người
LABIN        : Lao động đang làm việc trong khu vực công nghiệp
  và xây dựng
LABAG      : Lao động đang làm việc trong khu vực nông nghiệp
LABSE        : Lao động đang làm việc trong khu vực dịch vụ
LABOD      : Tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế
UNLAB      : Số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng
   chưa được thu hút vào nền kinh tế
UNRAT      : Tỷ lệ giữa số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao
   động nhưng chưa được thu hút vào nền kinh tế so với tổng số
   người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động
CAMOBI    : Huy động tiền vào hệ thống ngân hàng, giá hiện hành
CREDO       : Tổng vốn tín dụng nội địa, giá hiện hành
CREPU       : Tín dụng cho khu vực Nhà nước (kể cả DNNN và Chính phủ),
   giá hiện hành
CREPRI      : Tín dụng cho khu vực tư nhân, giá hiện hành
INVES        : Đầu tư của toàn nền kinh tế, giá cố định
IG                : Đầu tư của khu vực Nhà nước, giá cố định
IP                : Đầu tư của khu vực tư nhân, giá cố định
FDI             : Đầu tư trực tiếp nước ngoài (vốn nước ngoài), giá cố định
IAG             : Đầu tư cho khu vực nông nghiệp, giá cố định
IIN              : Đầu tư cho khu vực công nghiệp, giá cố định
ISE              : Đầu tư cho khu vực dịch vụ, giá cố định
TIAG          : Tổng vốn đầu tư cho khu vực nông nghiệp từ năm 1990 đến
   năm tính toán, giá cố định
TIIN            : Tổng vốn đầu tư cho khu vực công nghiệp từ năm 1990 đến
   năm tính toán, giá cố định
TISE            : Tổng vốn đầu tư cho khu vực dịch vụ từ năm 1990 đến năm
   tính toán, giá cố định
GDPAG      : Tổng giá trị gia tăng ngành công nghiệp, giá cố định
GDPIN        : Tổng giá trị gia tăng ngành nông nghiệp, giá cố định
GDPSE       : Tổng giá trị gia tăng ngành dịch vụ, giá cố định
GDP            : Tổng sản phẩm trong nước, giá cố định
GGDP         : Tốc độ tăng trưởng GDP so với năm trước (%)
GDPCU       : Tổng sản phẩm trong nước, giá hiện hành
ACCUM      : Quỹ tích luỹ, giá cố định
CONCU      : Tiêu dùng toàn xã hội, giá hiện hành
CONPCU    : Tiêu dùng tư nhân, giá hiện hành
CONPRI      : Tiêu dùng tư nhân, giá cố định
CONSO       : Tiêu dùng toàn xã hội, giá cố định
INVCU       : Đầu tư của toàn nền kinh tế, giá hiện hành
ACCU         : Quỹ tích luỹ, giá hiện hành
EXCU         : Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ trong cân đối sử dụng GDP, giá
   hiện hành
IMCU                    : Nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ trong cân đối sử dụng GDP,
   giá hiện hành
SAICU        : Sai số trong cân đối sử dụng GDP, giá hiện hành
REVGO      : Tổng thu ngân sách Nhà nước, giá hiện hành
REVDO      : Tổng thu nội địa, giá hiện hành
REXIM       : Tổng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu, giá hiện hành
ROIL           : Tổng thu từ dầu thô, giá hiện hành
EXPGO       : Tổng chi ngân sách Nhà nước, giá hiện hành
EXPPM       : Chi ngân sách thường xuyên, giá hiện hành
EXINV        : Chi ngân sách cho đầu tư, giá hiện hành
DEFBU       : Thâm hụt ngân sách tính bằng cách lấy tổng chi trừ tổng thu,
  giá hiện hành
DEFRA       : Tỷ lệ bội chi ngân sách tính bằng cách lấy tổng chi trừ tổng
   thu
M2              : Tổng cung tiền tệ M2 (gồm cả ngoại tệ quy đổi)
GM2            : Tốc độ tăng trưởng tổng cung tiền tệ (%)
INFLA        : Tỷ lệ lạm phát hàng năm (%)
PRICE         : Chỉ số giá tiêu dùng (năm 1994=100%)
PGDP                    : Chỉ số giá GDP (năm 1994=100%)
PINVES      : Chỉ số giá vốn đầu tư (năm 1994=100%)
PACCUM    : Chỉ số giá quỹ tích luỹ (năm 1994=100%)
PCONGO    : Chỉ số giá quỹ tiêu dùng chính phủ (năm 1994=100%)
PCONPRI   : Chỉ số giá quỹ tiêu dùng tư nhân (năm 1994=100%)
PEXCON    : Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ trong cân đối sử
  dụng GDP (năm 1994=100%)
PIMCON     : Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ trong cân đối sử
  dụng GDP (năm 1994=100%)
NER            : Tỷ giá đồng VN / USD
EXRAT       : Chỉ số tỷ giá đồng VN / USD, (năm 1994=100%)
QE               : Chỉ số tăng trưởng GDP của 21 nước bạn hàng chính
GGDPAG   : Tốc độ tăng trưởng sản xuất nông nghiệp (%)
EXAG         : Kim ngạch xuất khẩu hàng nông lâm ngư nghiệp, triệu USD
EXLIN        : Kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp nhẹ, triệu USD
EXHIN        : Kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp nặng và khoáng sản,
  triệu USD
EXUS                   : Kim ngạch xuất khẩu toàn nền kinh tế, triệu USD
IMUS                    : Kim ngạch nhập khẩu toàn nền kinh tế, triệu USD
TRABA       : Chênh lệch xuất nhập khẩu, triệu USD
TRAGDP    : Tỷ lệ thâm hụt ngoại thương trên GDP (%)
EXCON      : Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ trong cân đối sử dụng GDP, giá
  cố định
IMCON       : Nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ trong cân đối sử dụng GDP,
  giá cố định.
PEX            : Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá tính theo đô la Mỹ
 (năm 1994=100%)
PIM             : Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá tính theo đô la Mỹ
 (năm 1994=100%)
PAYIN        : Chi ngân sách để trả nợ và viện trợ

          2.2) Các biến ngoại sinh
INTIN         : Lãi suất huy động nội tệ ngắn hạn (3 tháng, %/ năm)
INTOUT     : Lãi suất cho vay ngắn hạn (3 tháng, %/ năm)
ALFA          : Tỷ lệ tín dụng ngân hàng dành cho khu vực nhà nước (%)
(100- ALFA)        : Tỷ lệ tín dụng ngân hàng dành cho khu vực ngoài
            nhà nước (%)
ALFIAG     : Tỷ trọng vốn đầu tư dành cho khu vực nông nghiệp
 (vốn đầu tư tính theo giá cố định)
ALFIIN       : Tỷ trọng vốn đầu tư dành cho khu vực công nghiệp
(1- ALFIAG- ALFIIN)   : Tỷ trọng vốn đầu tư dành cho khu vực dịch vụ
SAI             : Sai số trong cân đối sử dụng GDP, giá cố định
CONGO      : Tiêu dùng của Chính phủ, giá cố định
DEFRATC  : Tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP theo cách tính của Bộ Tài
  chính (%)
ROTH         : Thu ngân sách từ các nguồn khác ngoài 3 nguồn chính
EXOTH       : Chi ngân sách khác ngoài 3 khoản chi lớn, giá hiện hành
INPIM         : Thay đổi giá nhập khẩu năm sau so với năm trước (%)
INPEX        : Thay đổi giá xuất khẩu năm sau so với năm trước (%)
JAP trong phương trình xác định QE: Tốc độ tăng trưởng GDP của nước Nhật. Tương tự FRA là Pháp, SING là Singapor, CHI là Trung Quốc, HON là Hồng Kông, MAL là Mã lai xia, PHIL là Philipin, THA là Thái Lan, INDO là Inđô nê xia, TAIW là Đài Loan, CORE là Hàn Quốc, USA là Mỹ, CAM là Cam pu chia, RUS là Nga, ENG là Anh, BEL là Bỉ, GERM là Đức, HOLAN là Hà Lan, ITA là Italia, SUIZ là Thụy Sĩ, OXTR là Ô xtrâylia. 88.24 là tỷ trọng (%) hàng xuất khẩu nước ta được xuất sang 21 nước bạn hàng chính trên.
D86, D87...           : Ký hiệu biến sốc, số 86 ký hiệu cho năm 1986, số 00 ký hiệu cho năm 2000, số 01 ký hiệu cho năm 2001...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét