Thứ Tư, 22 tháng 5, 2013

(10) THỬ NGHIỆM XÂY DỰNG MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG QUÝ

Bài viết của tôi năm 2001:

MÔ HÌNH KINH T LƯỢNG QUÝ
MỤC 1: MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG LÝ THUYẾT MÔ TẢ HOẠT ĐỘNG NGẮN HẠN CỦA NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN (tiếp theo)  
III- KHỐI XUẤT NHẬP KHẨU:
          (22) Xuất khẩu:
          Đối với các nền kinh tế đang phát triển, xuất khẩu có thể được dự báo theo một trong hai cách tiếp cận tuỳ bối cảnh từng nước: theo tiếp cận cung hoặc theo tiếp cận cầu. Theo tiếp cận cung, khối lượng xuất khẩu thường được xác định trên cơ sở khả năng sản xuất của nền kinh tế; ngoài ra cũng có thể bổ xung hoặc thay thế bằng một số biến khác như cầu nội địa đối với hàng xuất khẩu (khi loại cầu này tăng thì xuất khẩu giảm), khả năng tiếp cận nguồn tín dụng ngân hàng...[1]
          Tuy nhiên, quan điểm đi theo tiếp cận cung đã ngày càng không còn phù hợp với thực tế. Quan hệ cung chỉ tồn tại khi giả thiết co dãn hoàn toàn của cầu xuất khẩu đối với sản phẩm đó theo giá cũng tồn tại; nhưng điều này ít xảy ra trong thực tế. Hiện tượng trên chỉ xảy ra khi tồn tại những hàng rào hạn ngạch đối với hàng xuất khẩu mà khi dỡ bỏ những hàng rào này thì xuất khẩu sẽ tăng nhanh mà không làm giá giảm sút; hoặc xảy ra khi xuất khẩu được nhận nhiều khoản trợ cấp cho phép có thể gia tăng vô hạn. Quan hệ cung cũng phản ánh một điều trái với thực tế gần đây là những biến động về tỷ giá hay giá xuất có thể không ảnh hưởng tới giá cả sản xuất, và như vậy không có tác dụng kích thích hay kìm hãm người sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu tăng hat giảm khối lượng hàng hoá xuất khẩu của mình[2].

Trong tiếp cận cầu, người ta thường dùng quan hệ theo thuyết Keynes trong mô hình cầu, trong đó khối lượng xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ phụ thuộc đồng thời vào nhu cầu nhập khẩu thực của các nước bạn hàng và giá tương đối của hàng hoá sản xuất trong nước so với giá cả ở nước ngoài. Giá tương đối phụ thuộc vào tỷ giá, giá thế giới và giá trong nước. Phương trình quan hệ lý thuyết như sau:
EXUS = f(QE, Pr)
trong đó Qe là nhu cầu nhập khẩu thực của các nước bạn hàng (giá cố định), Pr là giá tương đối của hàng hoá sản xuất trong nước so với giá cả ở nước ngoài.
          Quan hệ trên cho biết có hai loại tác động: tác động tăng trưởng và tác động cạnh tranh. Tác động tăng trưởng khảng định bất kỳ một sự tăng trưởng cầu thực nào của một trong số các đối tác kinh tế đều kéo theo tăng khối lượng xuất khẩu của nước chủ nhà; trong khi tác động cạnh tranh cho biết ảnh hưởng của việc thay đổi giá tương đối tới khối lượng xuất khẩu.
Căn cứ vào đặc điểm kinh tế và xuất khẩu nước ta, chúng tôi đi theo tiếp cận cầu để dự báo khối lượng xuất khẩu trong mô hình VQEM cho nền kinh tế nước ta. Vì tốc độ lạm phát của đồng USD rất thấp so với lạm phát ở Việt nam nên đối với nước ta, để đơn giản các tính toán, có thể xem giá trị xuất khẩu hàng hoá theo USD tương đương với khối lượng, tức là giá trị đồng đô la không đổi.
          Phương trình xác định giá trị xuất khẩu hàng hoá theo USD như sau:
          EXUS = f(QE, (EXRAT*EXPRI/PRICE, IMUS(-1))
trong đó QE là cầu nhập khẩu hàng Việt nam của các nước bạn hàng; EXPRI là chỉ số giá hàng xuất khẩu, tính theo đô la. Biến nhập khẩu kỳ trước được đưa vào phương trình nhằm nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của nhập khẩu tới xuất khẩu vì nhiều ý kiến cho rằng một tỷ lệ quan trọng nhập khẩu vào là để chế biến và xuất khẩu trở lại (quan điểm “nhập để xuất”).
          Việc xác định chính xác QE là vấn đề hết sức khó khăn vì đây là chỉ tiêu mới xuất hiện ở Việt nam trong thời mở cửa, và nhất là trong những năm gần đây, khi xẩy ra hiện tượng hàng xuất khẩu nước ta bị giới hạn bởi nhu cầu của các nước bạn hàng. Do là chỉ tiêu mới nên ở nước ta chưa có người tính. Trong các mô hình cũ, xuất khẩu thường được xây dựng theo tiếp cận cung vì lúc đó nhu cầu nhập khẩu hàng nước ta rất lớn, gần như không có giới hạn, nhất là nhu cầu nhập khẩu của khối Liên xô cũ.
Để xây dựng chỉ tiêu này, trước tiên cần nghiên cứu kinh nghiệm thế giới. Chúng tôi thấy các nước thường lấy chỉ tiêu tổng nhập khẩu của toàn cầu hoặc của các đối tác thương mại chính làm cầu nhập khẩu hàng của mình; do đó với nước ta cũng có thể lấy chỉ tiêu tổng giá trị nhập khẩu của các đối tác chính. Tuy nhiên khi xem xét các số liệu cụ thể thì thấy quy mô nền kinh tế nước ta quá nhỏ so với tổng nhập khẩu của các đối tác chính trong đó có Mỹ, Nhật... nên quan hệ giữa xuất của ta với chỉ tiêu này là giả tạo. Tính thử theo chỉ tiêu này thì thấy nhiều khi cầu thế giới giảm mạnh nhưng hàng hoá xuất khẩu nước ta lại tăng rất nhanh và ngược lại. Do vậy nên tìm một chỉ tiêu gần với ta hơn.
Đối với nước ta, chúng tôi đã nghiên cứu cân nhắc giữa 2 cách tính:
- Tính theo chỉ số tăng trưởng trung bình trọng số của xuất khẩu của nước ta sang các nước bạn hàng.
          - Tính theo chỉ số phát triển GDP của các nước bạn hàng.
Phương pháp đầu có ưu điểm là quá trình tính toán dễ dàng và chỉ tiêu lựa chọn phản ảnh được cầu nước ngoài gửi đến nước ta một cách khá tốt vì trên cơ sở chỉ tiêu này, sẽ xác định được tổng xuất khẩu tiềm năng, được xem như nhu cầu nhập khẩu hàng nước ta theo xu hướng dài hạn. Tuy nhiên, chỉ tiêu này lại có nhược điểm lớn là khó có dự báo chính xác các giá trị của nó trong tương lai vì độ biến động của xuất khẩu của nước ta sang từng nước bạn hàng cụ thể rất lớn, không thể dự đoán được. Đặc biệt, các nước bạn đều không công bố rộng rãi nhu cầu nhập của họ trong tương lai để có thể suy diễn xác định nhu cầu nhập hàng Việt nam.
          Ưu điểm rất lớn của phương pháp thứ hai là cơ sở lý thuyết rõ ràng vì theo lý thuyết Keynes nhu cầu nhập khẩu của các nước đều phụ thuộc vào tăng trưởng GDP. Do đó, có thể coi tăng trưởng GDP là chỉ tiêu phản ảnh gián tiếp ảnh hưởng của tăng trưởng nhập khẩu của các nước bạn hàng tới xuất khẩu của nước ta. Từ đây, sinh ra ưu điểm thứ hai của việc chọn chỉ tiêu này là có thông tin dự báo dễ dàng, thường xuyên và tương đối chính xác trong thời kỳ dự báo vì các nước bạn và các tổ chức tài chính quốc tế đều công bố khá đều đặn  các dự báo tăng trưởng GDP của mình trong tương lai. Chính vì vậy, chúng tôi đã đi theo phương pháp thứ 2 để xây dựng chỉ tiêu QE cho mô hình VQEM.
Các làm cụ thể của phương pháp 2 như sau:



          + Tính cơ cấu xuất khẩu của Việt nam theo các nước trong thời kỳ ước lượng mô hình theo công thức:
trong đó Xuất(i) là giá trị xuất khẩu hàng của Việt nam sang nước i.
          + Chọn ra những nước có tỷ trọng xuất khẩu hàng Việt nam sang đó cao nhất. Theo tính toán, đó là 18 nước gồm Malaixia, Inđônêxia, Philipin, Singapo, Thái lan, Đài loan, Hồng kông, Hàn quốc, Nhật Bản, Trung quốc, Nga, Anh, Đức, Hà lan, Pháp, Thuỵ sĩ, Mỹ, Italia và Australia.
          + Tính các chuỗi chỉ số tăng trưởng GDP theo quý của 18 nước bạn hàng xuất khẩu lớn nhất ở trên. Số liệu được lấy từ sách: Thống kê tài chính quốc tế của Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Quy các chỉ số về cùng một năm gốc là năm 1994.
          + Tính chỉ tiêu chỉ số tăng trưởng trung bình của các nước nhập khẩu chính hàng hoá của ta theo công thức:



trong đó GDP(i) là chỉ số tăng trưởng GDP của nước bạn hàng i, x(i) là các trọng số, đại diện bằng tỷ trọng xuất khẩu của ta thực hiện với nước i trong tổng giá trị xuất khẩu của nước ta.



          Nếu sử dụng kỹ thuật trung bình cộng thì áp dụng theo công thức:
          Phương trình (22) cho phép tính toán xuất khẩu hàng hoá theo đô la Mỹ. Tuy nhhiên, khi đưa vào phương trình cân bằng tổng quát, cần phải chuyển đổi sang tiền Việt. Phương trình chuyển đổi là:
          EXPOR = f(EXUS * EXRAT/1000)
Ngoài ra, với những số liệu của Việt nam, phương trình (22) chỉ cho phép xác định tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá; nhưng chỉ tiêu đưa vào phương trình cân bằng tổng quát lại là tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Do đó, trong mô hình thực nghiệm cụ thể, sẽ phải có một số điều chỉnh để tính đến yếu tố này.
          (23) Nhập khẩu:
          Tương tự như đối với xuất khẩu, nhập khẩu trước tiên được dự báo theo khối lượng theo giá cố định tính bằng nội tệ, sau đó được chuyển sang dạng giá trị để tham gia vào phương trình cân bằng tổng quát. Tuy nhiên, trong trường hợp nước ta, cũng như xuất khẩu, trước tiên chúng ta dự báo nhập khẩu theo giá đô la Mỹ với ngầm ý rằng vì lạm phát ở Mỹ rất thấp nên giá trị nhập khẩu tính theo đô la Mỹ được xem như là nhập khẩu tính theo giá cố định; sau đó sang bước 2, sẽ chuyển đổi nhập khẩu tính theo đô la Mỹ sang tiền Việt, giá hiện hành để đưa vào phương trình cân bằng tổng quát.
          Theo các lý thuyết kinh tế vĩ mô, đặc biệt là học thuyết cầu của Keynes, các biến chính giải thích tiến triển của khối lượng nhập khẩu hàng hoá (và dịch vụ) của một nước là mức độ cầu của nước nhập khẩu, thể hiện ở mức độ hoạt động kinh tế hay thu nhập, và mức độ giá tương đối, tức là quan hệ giữa giá trong nước và giá quốc tế.  Phương trình cơ bản để dự báo khối lượng nhập khẩu là:                              IMUS = f(GDP, Pr)
trong đó GDP là tổng sản phẩm trong nước tính theo giá cố định; Pr là giá tương đối giống như trường hợp nhập khẩu, tuy nhiên chỉ số giá nước ngoài được sử dụng ở đây là chỉ số giá nhập khẩu chứ không phải là chỉ số giá xuất khẩu như trong phương trình xác định xuất khẩu.
          Trong các mô hình chi tiết, có thể phân rõ nhỏ hơn các thành phần của nhập khẩu để tăng độ chính xác của các dự báo. Ví dụ có thể chia nhập khẩu theo các loại sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm quan trong nhất. Trong trường hợp nước ta, dự báo nhập khẩu dầu thô căn cứ vào tăng trưởng sản xuất; dự báo nhập tư liệu sản xuất căn cứ vào tổng mức đầu tư (đầu tư vừa đóng vai trò nhân tố cung, vừa đóng vai trò nhân tố cầu); dự báo nhập hàng tiêu dùng căn cứ vào tiêu dùng nội địa, chủ yếu là tiêu dùng tư nhân...
          Bên cạnh những nhân tố chính nêu trên, có thể xuất hiện thêm một số biến giải thích khác như mức độ đầu tư, khả năng cung cấp tín dụng cho nền kinh tế hoặc tình hình dự trữ ngoại tệ. Trong phương trình trên, vẫn bao hàm một giả thiết quan trọng là nước nhập khẩu phải là một nước nhỏ mở cửa; tức là cầu nhập khẩu của nước đó không đủ mạnh để làm biến đổi giá của các sản phẩm đã hình thành trên thị trường thế giới.
          Tương tự như trường hợp xuất khẩu, phương trình trên đã thể hiện được hai loại tác động tới nhập khẩu: tác động tăng trưởng và tác động cạnh tranh. Theo tác động tăng trưởng, nếu nhu cầu hoặc thu nhập trong nước tăng, sẽ kéo theo cầu nhập khẩu tăng. Như vậy, tăng cầu cuối cùng sẽ có tác động trực tiếp tới tăng khối lượng nhập khẩu, đồng thời cũng có tác động gián tiếp tới tăng sản xuất, làm cho nhu cầu nhập khẩu hàng hoá trung gian tăng lên. Đối với tác động cạnh tranh, giá tương đối tăng lên (ví dụ giá nhập tăng nhanh hơn giá trong nước) sẽ làm giảm lợi nhuận của người nhập khẩu và khuyến khích tiêu dùng hàng sản xuất trong nước nay đã trở nên rẻ hơn so với hàng nhập khẩu. Như vậy đã xuất hiện hiện tượng cạnh tranh và thay thế lẫn nhau giữa hai loại sản phẩm nhập và sản xuất trong nước. Vì giá hàng nhập khẩu tính theo nội tệ bằng giá hàng nhập khẩu tính theo ngoại tệ nhân với tỷ giá nên phương trình trên đồng thời cũng phản ánh hai tác động về giá: biến động giá quốc tế và biến động tỷ giá.
          Ở nước ta, mặc dù thập kỷ 90 là giai đoạn chuyển đổi kinh tế nhưng những phân tích trong chương I cho thấy hầu hết các quan hệ diễn ra trong nền kinh tế nước ta đều là phản ánh lại sự hoạt động của những quy luật của kinh tế thị trường; đặc biệt, trong chương I, chúng ta đã phân tích vai trò quan trọng của đầu tư tới tăng trưởng kinh tế và nhập khẩu để phục vụ đầu tư chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Vì vậy, có thể sử dụng phương trình lý thuyết chung nêu trên làm phương trình xác định nhập khẩu của nước ta; tức là phương trình xác định nhu cầu nhập khẩu tính theo đô la như sau:
          IMUS = f( IMUS(-1), GDP, EXRAT*IMPRI/PRICE)
trong đó IMPRI là chỉ số giá hàng nhập khẩu, tính theo đô la.
Cũng như với xuất khẩu, phương trình (23) chỉ cho phép xác định tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá; nhưng chỉ tiêu đưa vào phương trình cân bằng tổng quát lại là tổng giá trị nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Do đó, trong mô hình thực nghiệm cụ thể, sẽ phải có một số điều chỉnh để tính đến yếu tố này.
          IV. SƠ ĐỒ LÔ GÍC CỦA MÔ HÌNH LÝ THUYẾT
          Căn cứ vào các lập luận hình thành mô hình VQEM lý thuyết trong ba mục trên, chúng ta đi đến sơ đồ lô gíc của mô hình như sau:
 
























[1] Các mô hình dự báo xuất, nhập khẩu của các nước đang phát triển đều dựa trên một giả thiết chung được gọi là “giả thiết một nước nhỏ mở cửa”, trong đó, đối với xuất khẩu, giả thiết này nói rằng nước đó đóng vai trò đủ yếu  trên thị trường thế giới một loại sản phẩm xuất khẩu nào đó để có thể bán bao nhiêu cũng được theo giá thế giới mà không làm thay đổi giá thế giới tính theo ngoại tệ. Về nhập khẩu, giả thiết này nói rằng nước đó đóng vai trò đủ yếu  trên thị trường thế giới một loại sản phẩm để mà mọi thay đổi nhu cầu của nước đó về sản phẩm này đều không ảnh hưởng tới giá của nó tính theo ngoại tệ. Như vậy, khái niệm “một nước nhỏ mở cửa” ít liên quan tới diện tích hay tiềm lực kinh tế của một nước; một nước có thể có tiềm lực kinh tế rất mạnh nhưng vẫn có thể bị coi là nước nhỏ khi đối với 1 sản phẩm xuất (hoặc nhập) cụ thể, nước đó chỉ tham gia rất ít so với quy mô của thị trường thế giới.
[2] Trước đây, do quan hệ kinh tế thế giới kém phát triển, chế độ bảo hộ cao, nhiều nước xây dựng các quỹ bình ổn giá để điều chỉnh loại bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của tỷ giá, giá quốc tế tới xuất, nhập khẩu của mình. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập quốc tế gần đây, xu hướng xây dựng các quỹ bình ổn như trên không còn nữa.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét