Chủ Nhật, 9 tháng 6, 2013

(8) Chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam

Bài viết cũ của tôi:
Chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam
B- Kinh nghiệm của Trung Quốc
Sau 30 năm cải cách, mở của và chuyển đổi nền kinh tế hoạt động theo cơ chế quản lý tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường (1978-2007), nền kinh tế Trung Quốc đã phát triển cực kỳ nhanh chóng với những thành tựu rực rỡ hầu như chưa nền kinh tế lớn nào trên thế giới có được. Thành công của Trung Quốc xuất phát từ các chính sách và chiến lược có tính thích nghi. Khi một loạt vấn đề được giải quyết, những vấn đề mới lại nảy sinh và cần tới những chính sách và chiến lược mới. Quá trình này cũng bao gồm cả sự sáng tạo. Trung Quốc nhận ra rằng không thể áp dụng những mô hình đã phát huy hiệu quả ở các quốc gia khác cho mình. Hoặc ít nhất, những mô hình đã thành công ở đâu đó cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình ở Trung Quốc. Thực tế, mô hình kinh tế của Trung Quốc đã một thành công vang dội và đưa hàng trăm triệu người Trung Quốc ra khỏi cảnh đói nghèo. Những thay đổi này là rõ nét, không chỉ qua những con số thống kê mà còn hiện ra trên khuôn mặt của những người dân trên khắp đất nước Trung Quốc.
1) Tăng trưởng của nền kinh tế
Có thể nói thành tựu của Trung Quốc về tăng trưởng đã gây ấn tượng mạnh mẽ cho toàn thế giới trong suốt 30 năm qua. Tốc độ tăng trưởng thường xuyên ở mức trên dưới 10% mỗi năm. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc đạt 10,4%; năm 2006 đạt 11,1%; năm 2007 đạt 11,9%. Gần đây, Trung Quốc đã chính thức công bố con số tăng trưởng GDP trung bình 9,7% hàng năm từ 1978 đến 2007. Như vậy, tốc độ tăng trưởng hàng năm của nền kinh tế Trung Quốc vượt xa tốc độ bình quân 3,3% của thế giới trong cùng thời kỳ nói trên, làm cho Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ tư thế giới và xuất nhập khẩu lớn thứ ba thế giới.


Đồ thị 3: Tốc độ tăng GDP của Trung Quốc giai đoạn 1990-2007 (%)

Tuy nhiên, tăng trưởng của Trung Quốc có yếu điểm đáng chú ý là tăng trưởng diễn ra theo chu kỳ, gắn với các điều chỉnh trong chính sách tài chính, tiền tệ và tỷ giá. Trung Quốc thường chủ động nới lỏng chính sách tài chính, tiền tệ hoặc phá đồng tiền để thúc đẩy tăng trưởng, làm cho nền kinh tế trở nên quá nóng với nhiều hậu quả tiêu cực. Khi đó, chính sách tài chính, tiền tệ chặt và ổn định tỷ giá lại được áp dụng. Đặc biệt, các chu kỳ tăng trưởng thường đi kèm với những biến động về tài chính, tiền tệ, lạm phát và tỷ giá nên làm giảm chất lượng của quá trình tăng trưởng.
2) Chất lượng tăng trưởng kinh tế
a) Xét theo chỉ tiêu năng suất nhân tố tổng hợp (TFP):  
Một thành công lớn trong quá trình tăng trưởng nhanh ở Trung Quốc là tăng trưởng cao gắn liền với nâng cao chất lượng tăng trưởng, đặc biệt là dựa vào tăng hiệu quả sử dụng vốn và các yếu tố khác hơn là dựa vào sự gia tăng lượng đầu vào về vốn và lao động. Theo tính toán của Ngân hàng Thế giới, trong thời gian 1978 – 1998, việc tăng vốn đầu vào đóng góp khoảng 37% vào mức tăng trưởng chung, đồng thời cải thiện chất lượng và số lượng lao động đóng góp 17%. Như vậy, còn lại gần 1 nửa tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc có được là nhờ các yếu tố khác (tiến bộ công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến quản lý…), tức là những nhân tố hợp thành TFP.
Ngoài ra, đóng góp của TFP trong tăng trưởng của Trung Quốc có xu hướng tăng lên. Điểm phần trăm tăng trưởng của TFP đã tăng từ 0,194% năm 1979 lên đến 4,09 % năm 1998 trong tốc độ tăng trưởng GDP chung của cả giai đoạn 1979 -1998 là 9,7%. Tính chung trong 30 năm chuyển đổi kinh tế, đóng góp của TFP theo điểm phần trăm trung bình đạt khoảng 4,4% trong tốc độ tăng trưởng GDP chung, chiếm 46,8% đóng góp vào tăng trưởng GDP của Trung Quốc. Giá trị TFP của Trung Quốc là khá cao so với các nước trong khu vực và có thể so sánh với các nước công nghiệp phát triển.
b) Xét theo nhóm chỉ tiêu sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
(1) Năng suất lao động và sử dụng nguồn nhân lực
Đặc điểm khá nổi bật của kinh tế Trung Quốc là tăng trưởng dựa vào tăng năng suất. Chỉ nhìn vào tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao trong khi tốc độ tăng trưởng nguồn nhân lực rất thấp (khoảng 1-1,2%/năm, hiện nay chỉ khoảng 0,5%) trong 30 năm qua của Trung Quốc là có thể khẳng định điều đó. Mặt khác, chi phí nhân công ở Trung Quốc khá rẻ; nhờ đó, hàng Trung Quốc có sức cạnh tranh rất cao. Có thể nói đến tận hôm nay, cả thế giới vẫn đang ngập chìm trong biển hàng từ Trung Quốc. Các nhà sản xuất, xuất khẩu trên khắp thế giới đều lo sợ những làn sóng hàng đại hạ giá từ quốc gia châu á này tràn vào sau khi Trung Quốc gia nhập WTO.
Tuy nhiên, các lợi thế về giá, đặc biệt là giá nhân lực, đang có xu hướng giảm dần. Một số dự báo cho thấy tình trạng thiếu nhân lực sẽ như một dịch bệnh kinh tế lan tràn khắp Trung Quốc. Báo cáo được Trung tâm Nghiên cứu Phát triển (DRC) đưa ra khi các học giả tin rằng diễn biến mới đang bào mòn lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp Trung Quốc, phá hỏng chiến lược sản xuất - xuất khẩu dựa trên các ngành hàng sử dụng nhiều nhân lực phổ thông giá hạ. Theo điều tra của DRC năm 2005 tại 2.749 thôn thuộc 17 tỉnh, cho thấy có tới 74% số thôn được khảo sát đã hết nguồn nhân lực, hết những lao động trong độ tuổi lao động có thể làm việc tại các khu công nghiệp, các trung tâm kinh tế mới. 25% thôn còn lại, tức là những nơi còn dư chút lao động thì số lượng nhân lực dưới độ tuổi 40 chỉ cỡ 24% ở khu vực miền Trung, 23,6% ở khu vực phía Tây, và cỡ 28,4% ở khu vực Đông.
(2) Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
Cũng như nhiều nước Đông á khác, tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc được đánh giá là dựa chủ yếu vào tăng nguồn vốn đầu vào. Tỷ lệ đầu tư trên GDP của Trung Quốc rất cao trong suốt thời kỳ chuyển đổi sang kinh tế thị trường (nhiều năm trên 40%). Đặc biệt trong những năm gần đây, tỷ lệ này đã tăng lên xấp xỉ 45%. Tuy nhiên, do tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc cũng rất cao nên hiệu quả sử dụng vốn của Trung Quốc cũng không thuộc loại thấp so với các nước đang phát triển trong khu vực. Hệ số ICOR trong nhiều thập kỷ gần đây thường xuyên ở mức 4-5, trong đó 5 năm gần đây khá ổn định ở mức 4,2.
            Bảng 4: Hệ số ICOR của Trung Quốc (đầu tư không tính trễ)
Năm
Đầu tư / GDP
GDP
ICOR
2002
37.90
9.10
4.16
2003
41.20
10.00
4.12
2004
43.30
10.10
4.29
2005
43.30
10.40
4.16
2006
44.90
10.70
4.20
Mức đầu tư cao của Trung Quốc có nguồn gốc từ tỷ lệ tiết kiệm và tỷ lệ tích lũy rất cao. Tỷ lệ dự trữ trong nước cao thể hiện qua lượng tiền gửi trong nước tăng hàng năm, trong đó tiền gửi tiết kiệm của nhân dân thành thị và nông thôn chiếm 2/3 trong GDP. Đồng thời, Trung Quốc cũng rất thành công trong việc thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Nguồn vốn này đã tăng nhanh chóng, từ 4,4 tỷ USD năm 1991 lên 53,3 tỷ USD năm 2003; 60,6 tỷ USD năm 2004 rồi 60,33 tỷ USD năm 2005, đưa Trung Quốc lên vị trí dẫn đầu thế giới về tiếp nhận FDI. Khi mở cửa rộng hơn ra thế giới vào đầu thập kỷ 90, Trung Quốc liên tục đứng đầu trong các nước đang phát triển về mức thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Đến cuối năm 2006, đã có 590.000 doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Chính hai nhân tố này đã khiến cho Trung Quốc duy trì tốc độ tăng trưởng cao và thúc đẩy quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế của Trung Quốc.
c) Xét theo nhóm chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh và tính ổn định trong tăng trưởng của nền kinh tế
(1) Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Đóng góp trước tiên về tăng trưởng nền kinh tế của Trung Quốc phải kể đến thành quả của quá trình chuyển đổi trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu ngành vì một cơ cấu ngành kinh tế hợp lý sẽ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng cao và bền vững của nền kinh tế. Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện điều chỉnh mang tính chiến lược đối với cơ cấu kinh tế, lấy cơ cấu ngành làm trọng tâm, coi cơ cấu ngành có tác dụng quyết định đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Có thể nói, điều chỉnh kết cấu ngành nghề là một trong những nội dung quan trọng nhất làm thay đổi phương thức tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc. Phương châm đặt ra đối với Trung Quốc ngay từ những năm đầu thập kỷ 1990 là: chú trọng phát triển ngành nông nghiệp, nâng cao tốc độ và chất lượng phát triển công nghiệp và tích cực phát triển các ngành dịch vụ. Phát triển ngành nghề thứ nhất, đặc biệt là nông nghiệp được coi là chiến lược cơ sở của Trung Quốc vì sản xuất lương thực liên quan đến sự tồn vong, đến tương lai của Trung Quốc. Phát triển ngành nghề thứ ba giúp thúc đẩy thị trường phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất, giúp ngành nghề thứ nhất và thứ hai phát triển.
Từ năm 1978 đến nay, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Trung Quốc cũng diễn ra theo xu hướng chung của thế giới là tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong GDP giảm xuống, trong khi tỷ trọng các khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng lên nhanh. Thực tế, tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong GDP của Trung Quốc đã giảm rất nhanh từ 27,1% năm 1990 xuống còn 15,1% năm 2000 và 11,3% năm 2007; trong khi tỷ trọng khu vực công nghiệp liên tục tăng lên nhanh, từ 41,3% năm 1990 lên 45,9% năm 2000 và 48,6% năm 2007. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong giai đoạn đầu cũng tăng khá nhanh, từ 31,5% năm 1990 lên 39% năm 2000 và 40,1% năm 2007.
Như vậy, trong xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành, có một đặc điểm nổi bật dễ nhận thấy là tỷ trọng khu vực nông nghiệp giảm xuống đã làm tỷ trọng của khu vực công nghiệp tăng lên (tỷ trọng khu vực dịch vụ cơ bản ổn định từ năm 2000 đến nay). Đó là do Chính phủ Trung Quốc đã tập trung đầu tư lớn cho khu vực công nghiệp. Điều này cho thấy các chính sách thúc đẩy công nghiệp hóa đã thực sự phát huy tác dụng. Ngoài ra, sự phát triển mạnh của khu vực dịch vụ trong quá trình cải cách theo hướng thị trường là một tất yếu mang tính khách quan trong thực trạng phát triển của nền kinh tế thị trường, song sự phát triển này vẫn phải gắn với nhu cầu cung cấp dịch vụ của các ngành công nghiệp và nông nghiệp.
Về cơ bản, cơ cấu trong nội bộ ngành công nghiệp thay đổi theo hướng: tỷ trọng một số ngành mới như chế tạo, dầu mỏ, điện tử, thiết bị thông tin được nâng cao, tỷ trọng một số ngành công nghiệp truyền thống như dệt, cao su,… bắt đầu giảm, nhưng cục diện chung về cơ cấu ngành chưa có sự thay đổi mạnh mẽ, rõ nét.
Trong khu vực nông thôn cũng có sự chuyển biến cơ cấu theo chiều hướng tích cực. Điển hình là sự tăng trưởng nhanh chóng của khu vực công nghiệp nông thôn, bao gồm vô số các doanh nghiệp nông thôn quy mô nhỏ do các hương trấn, làng xã và cá nhân thành lập. Các doanh nghiệp nông thôn này đã làm thay đổi toàn cảnh kinh tế của khu vực nông thôn Trung Quốc, trở thành lực lượng chính đứng đằng sau sự tăng trưởng chung bền vững của Trung Quốc. Đây chính là điểm khác biệt quan trọng đưa Trung Quốc đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong công cuộc công nghiệp hóa công nghiệp nông thôn nói riêng và công nghiệp hóa nói chung. Năm 1978, giá trị sản lượng của các doanh nghiệp nông thôn trong khu vực công nghiệp chỉ chiếm 9% tổng sản lượng toàn quốc. Đến năm 1997, con số này lên tới 58% và hiện nay đã đạt khoảng 80%. Công nghiệp nông thôn ngày nay không chỉ đơn thuần là sự bổ sung cho sản xuất nông nghiệp mà đã là một nguồn tăng trưởng không thể thiếu đối với các ngành kinh tế khác, đặc biệt là xuất nhập khẩu.
(2) Khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước
Nhờ những thay đổi trong cơ cấu ngành đã tạo tiền đề thúc đẩy thương mại Trung Quốc phát triển và trở thành động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Trung Quốc, đặc biệt là kể từ sau khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2001. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc tăng lên hàng năm. Tốc độ tăng trưởng xuất, nhập khẩu của Trung Quốc trong giai đoạn 2001 – 2005 luôn được duy trì ở mức trên 20%. Trong những năm gần đây, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng lên rất nhanh, 34,6% năm 2003, 35,4% năm 2004, 28,4% năm 2005, 27,2% năm 2006 và 25,7% năm 2007. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2007 lên tới 1218 tỷ USD (năm 2000 chỉ đạt 249 tỷ USD). Với tốc độ tăng trưởng cao liên tục như vậy cho thấy, mô hình tăng trưởng ngoại thương của Trung Quốc đã có những thay đổi sâu sắc.
Theo nhiều nhà kinh tế hàng đầu của Trung Quốc và thế giới, nhân tố đầu tiên làm cho khả năng cạnh tranh của hàng hóa Trung Quốc khá cao là tiến độ cải cách nhanh chóng và đồng bộ của Trung Quốc. Một trong những cải cách quan trọng nhất và kịp thời nhất là việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước; trong khoảng 10 năm qua, gần 30 triệu công nhân mất việc đã có được công việc mới tại các công ty đã cổ phần hoá.
Nhân tố thứ hai là việc Trung Quốc vẫn đang ngày càng mở rộng cửa hội nhập với thế giới và đón các dòng vốn, dòng người vào tham gia các hoạt động kinh tế tại nước này. Ngay cả những lĩnh vực được cho là quan trọng, nhạy cảm nhất của nền kinh tế như ngân hàng, năng lượng, viễn thông... cũng đang từng bước được mở cửa cho giới đầu tư.
Nhân tố thứ ba là sự tập trung và quan tâm cao độ của Nhà nước đối với mảng giáo dục và công nghệ. Chính phủ Trung Quốc đã chi những khoản tiền khổng lồ và tập trung nhân lực đông đảo để phát triển và hỗ trợ phát triển giáo dục và công nghệ. Hiệu quả sẽ còn cao hơn trong tương lai, nhưng ngay bây giờ nó đã là nhân tố đảm bảo cho sự tăng trưởng vững vàng của kinh tế Trung Quốc.
Nhân tố thứ  là công cuộc đô thị hoá đang diễn ra và vẫn còn đất để diễn ra trong tương lai dài tại Trung Quốc. Đô thị hoá đã giúp hướng nền kinh tế tới gần với các quy luật kinh tế thị trường hơn và giúp tăng cường đầu tư, đặc biệt là đầu tư mới các công trình hạ tầng cơ sở.
Một nhân tố quan trọng khác là Trung Quốc đang từng bước dịch chuyển khỏi chiến lược tăng trưởng nhờ xuất khẩu mà nước này cùng với các quốc gia Đông Á khác đã theo đuổi. Chiến lược này thúc đẩy chuyển giao công nghệ, giúp làm giảm khoảng cách công nghệ và cải thiện chất lượng của các mặt hàng chế tạo một cách nhanh chóng. Tăng trưởng nhờ xuất khẩu đồng nghĩa với việc Trung Quốc có thể sản xuất mà không cần phải lo lắng đến việc phát triển thị trường trong nước.
Tuy nhiên, đã xuất hiện ngày càng nhiều phản ứng toàn cầu đối với hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc. Thậm chí cả những quốc gia có vẻ như cam kết thực hiện “thị trường cạnh tranh” cũng không muốn bị thua trên sân nhà và đưa ra những lời cáo buộc về “cạnh tranh không bình đẳng”. Quan trọng hơn, thậm chí nếu thị trường tại nhiều khu vực vẫn chưa bão hòa hoàn toàn, việc duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu ở mức hai con số sẽ không phải là một điều dễ dàng.
Để tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế và khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước, Trung Quốc đang chuyển sang khuyến khích tiêu dùng trong nước. Tăng trưởng thu nhập tăng cao theo đà tăng trưởng GDP đất nước chính là yếu tố hậu thuẫn cho chiến lược mới này. Giải pháp thứ hai là đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng lớn như đường sắt, tàu điện ngầm, sân bay, năng lượng và các cơ sở hạ tầng thiết yếu khác đối với một nền kinh tế đang phát triển. Nông nghiệp nông thôn cũng sẽ được chú trọng đầu tư lớn. Giải pháp thứ ba là mô hình tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đang thay đổi theo hướng nghiên cứu về chất lượng nhiều hơn số lượng. Việc thắt chặt sử dụng đất cho kinh doanh, sử dụng năng lượng hiệu quả và tiết kiệm, bảo vệ môi trường và đánh thuế tài nguyên cao hơn... sẽ là những động thái dễ thấy từ xu thế đó.
Giải pháp thứ tư là việc mở rộng đổi mới, cải cách về kinh tế và xã hội. Các chiến dịch chống tham nhũng, tự do hoá tài chính và chuẩn hoá hệ thống thuế sẽ được tập trung cao độ trong giai đoạn 2007-2010. Giải pháp thứ năm là việc cơ cấu lại doanh nghiệp sẽ được đẩy mạnh, tăng tốc. Để đảm bảo tính cạnh tranh, các doanh nghiệp Trung Quốc sẽ cải tổ nhiều về cơ cấu thông qua việc mua bán sáp nhập, liên doanh liên kết với các đối tác chuyên nghiệp và đổi mới phương thức đầu tư cũng như mua sắm tài sản cho doanh nghiệp.
Tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc luôn đi liền với sự phát triển của lĩnh vực khoa học - công nghệ. Tổng mức kinh phí chi cho hoạt động khoa học toàn quốc liên tục tăng lên; hiện nay tỷ trọng đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) của Trung Quốc đã vượt 1% GDP, đứng hàng đầu trong các nước phát triển. Sự phát triển của khoa học - công nghệ đã góp phần không nhỏ trong việc tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy sử dụng có hiệu quả các yếu tố đầu vào sản xuất, tăng tỷ trọng đóng góp của TFP trong mức tăng trưởng GDP.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế nhanh ở Trung Quốc lại không dẫn đến việc năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được nâng cao. Ngược lại, trong những năm gần đây, theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF – World Economic Forum), vị trí xếp hạng năng lực cạnh tranh của Trung Quốc liên tục tụt bậc. Nếu như năm 2002, xếp hạng năng lực cạnh tranh tăng trưởng của Trung Quốc là 33 trên tổng số 80 nước được xếp hạng, thì đến năm 2003 đã tụt 11 bậc xuống vị trí thứ 44, năm 2004 là 46 và năm 2005 là 49. Trong đó, chỉ số môi trường vĩ mô có sự suy giảm mạnh nhất từ vị trí rất cao (thứ 8) năm 2002 xuống vị trí thứ 24 năm 2004 và 33 năm 2005. Điều này xuất phát từ thực tế là trong vòng 2 - 3 năm qua, Trung Quốc đang áp dụng các biện pháp để kiềm chế, kiểm soát sự tăng trưởng quá nóng, cũng như do cầu tăng mạnh đã thúc đẩy lạm phát gia tăng.
(3) Sự ổn định của hệ thống tài chính, tiền tệ
Trong điều hành bằng các chính sách kinh tế vĩ mô, Trung Quốc chú trọng sử dụng chính sách tài khóa, coi đây là động lực tiên phong thúc đẩy kinh tế tăng trưởng một cách bền vững. Trong suốt gần 30 năm qua, Trung Quốc đã kiên trì thực hiện chính sách chi tiêu NSNN hết sức thận trọng, kiểm soát chặt chẽ thâm hụt NSNN, tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, thuận lợi cho kinh tế tăng tốc lâu dài. Từ 1978 đến nay, Trung Quốc kiên quyết không phát hành tiền cho chi tiêu và bù đắp thâm hụt NSNN trong trường hợp thu NSNN không đủ cho chi tiêu của Chính phủ. Thay vào đó, tích cực thi hành chính sách động viên (chính sách thu) và chính sách chi NSNN đúng đắn. Thâm hụt NSNN của Trung Quốc chỉ dao động trên dưới 1-2% GDP, vào loại vững chắc nhất thế giới. Riêng năm 2007, NSNN Trung Quốc thặng dư 0,7% GDP.
Bên cạnh đó, Trung Quốc thực hiện các chính sách điều chỉnh mạnh mẽ cơ cấu chi NSNN, bám sát các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. Tỷ lệ đầu tư vào các dự án sản xuất giảm dần cho thấy Nhà nước đã chủ động rút dần khỏi hoạt động sản xuất kinh doanh thuần túy vốn có trong kinh tế kế hoạch để tập trung cho chức năng hoạch định chính sách, điều chỉnh và định hướng ở tầm vĩ mô. Ngược lại, tỷ trọng chi NSNN cho y tế, giáo dục và phúc lợi tăng lên khá nhanh. Ngoài ra, chi cho quản lý nhà nước và bộ máy hành chính cũng tăng lên đả đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của công tác quản lý kinh tế, xã hội, môi trường.
Quan hệ và tỷ trọng giữa ngân sách Trung ương (NSTW) và ngân sách địa phương (NSĐP) cũng có những thay đổi cơ bản. Tỷ trọng của NSTW liên tục giảm và duy trì ở mức thấp, tỷ trọng NSĐP tăng lên. Tỷ trọng NSĐP trong tổng NSNN lớn tạo điều kiện cho địa phương tăng cường và chủ động trong chi tiêu và đầu tư. Tuy nhiên, ở khía cạnh khác điều này gây ra tình trạng NSTW thiếu nguồn lực, khó khăn cho việc thực hiện các chương trình tầm cỡ nhằm hỗ trợ các vùng khó khăn, nghèo nàn, kém phát triển. Trung Quốc hiện nay trở thành một trong nhiều nước bị mất cân đối và có sự phân hóa lớn nhất trên thế giới. Sự phân hóa ngày càng nghiêm trọng giữa miền Đông – Tây, giữa giàu – nghèo, thành thị – nông thôn.
Về tiền tệ, để đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế với hai con số, Trung Quốc đã chấp nhận mức lạm phát khá cao, nhiều khi tới 10 -20%/năm trong suốt giai đoạn năm 1978 – 1997 bằng chính sách tiền tệ mở rộng với tốc độ tăng trưởng tiền tệ khá cao (khoảng 30%/năm). Tuy nhiên, càng ngày Trung Quốc càng nhận thấy chính sách này không đảm bảo bền vững vì dẫn tới những yếu kém về thể chế, trì trệ trong các điều chỉnh cải cách tài chính; hạn chế tốc độ đưa công nghệ mới vào nền kinh tế thấp và nâng cao tỷ lệ lao động có trình độ cao. Do vậy, trong khoảng 10 năm gần đây, tốc độ tăng trưởng tiền tệ đã được kiểm soát khá chặt, chỉ khoảng 12-20%/năm; kết quả là tỷ lệ lạm phát của Trung Quốc đã được kiềm chế ở mức thấp, chỉ khoảng từ -0,8 đến +1,8%, cá biệt năm 2004 tăng lên 3,9% và năm 2007 là 4,8%. Mặc dù vậy, vẫn còn những bất cập nghiêm trọng trong quản lý tiền tệ như tình trạng vay tín dụng quá lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc vay để đầu tư quá nhiều vào bất động sản; gây ra tốc độ tình trạng tăng trưởng ảo và nguy cơ lạm phát vẫn có thể xảy ra.
Trong những năm vừa qua, tại Trung Quốc, tình trạng các khoản vay ngân hàng tăng nhanh, kéo theo nợ xấu của ngân hàng gia tăng là một trong những nguyên nhân chính gây ra sự tăng trưởng quá nóng của nền kinh tế nước này. Sự bùng nổ tín dụng gần đây khiến cho hệ thống ngân hàng Trung Quốc đang phải đối diện với nhiều yếu tố rủi ro mà nghiêm trọng là tỷ lệ nợ xấu đã lên đến 30% nợ vay. Nguyên nhân là do cơ cấu cho vay bất hợp lý, các khoản cho vay trung dài hạn chủ yếu đầu tư vào xây dựng cơ bản, đầu tư bất động sản, khoản vay tiêu dùng cá nhân tăng chậm. Thêm vào đó, việc ngân hàng thả nổi cho vay tín dụng, khiến đầu tư tài sản cố định tăng trở lại, đầu tư chậm và khó thu hồi gia tăng. Năm 2006, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng trong nước là 8,3%.
Trung Quốc thực hiện chính sách tỷ giá đã nới lỏng dần dần và cải cách từng bước qua từng giai đoạn, từ năm 1986 đến năm 2004, tỷ giá đồng nhân dân tệ so với đôla Mỹ liên tục được nới lỏng đã tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu, cụ thể từ 2,8 NDT/USD lên 4,72 NDT/USD năm 1989; 5,7 NDT/USD năm 1993,  và giữ ở mức ổn định 8,28 NDT/USD từ năm 1994 đến năm 2004. Nhờ áp dụng chính sách hạ giá thấp đồng NDT so với các đồng khác, Trung Quốc đã kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, tăng thặng dư cán cân thương mại và cán cân vốn.
Tuy nhiên, chính sách tỷ giá ổn định của Trung Quốc ngày càng bộc lộ những tác độ tiêu cực. Trên thực tế, đồng NDT được định giá quá thấp so với các đồng tiền khác đã làm tăng trưởng quá mức tín dụng cho vay của các ngân hàng, gây khó khăn trong việc hạn chế tình trạng phát triển quá nóng của nền kinh tế, làm tăng giá hàng nhập khẩu gây ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng trong nước, đồng thời làm gia tăng sự phản đối từ các nước khác đặc biệt là Mỹ, châu Âu và Nhật Bản. Trước bức xúc đó, ngày 21/7/2005, Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa đã tuyên bố nâng giá đồng NDT từ mức 8,28 NDT/USD lên 8,11 NDT/USD và sau đó liên tục điều chỉnh chỉ còn 7 NDT/USD hiện nay. Việc định giá lại đồng NDT có tác động tích cực trong việc kiềm chế lạm phát, hạn chế tăng tín dụng, thúc đẩy quá trình cải cách ngân hàng, tạo một thị trường tài chính ổn định và lành mạnh, làm tiền đề cho tăng trưởng kinh tế bền vững, mặt khác, giúp Trung Quốc giảm sức ép từ phía các đối tác như Nhật Bản, Mỹ và châu Âu.
Dự trữ ngoại hối của Trung Quốc trong hơn một thập kỷ qua tăng mạnh. Từ mức thấp hơn 50 tỷ USD trong suốt giai đoạn 1990 – 1993 lên tới mức 487 tỷ USD năm 2000, 1423 tỉ USD năm 2005 và đến cuối năm 2007 lên đến 1534 tỷ USD. Dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc nhiều hơn 13 lần so với tổng các khoản nợ nước ngoài ngắn hạn của nước này. Lượng dự trữ ngoại hối lớn đã tham gia giúp Trung Quốc hỗ trợ tài chính cho hệ thống ngân hàng khi cần thiết nhằm ổn định thị trường tài chính, tiền tệ.
d) Xét theo nhóm chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng gắn với phát triển xã hội
(1) Về chỉ số phát triển con người: Liên tục trong hai thập kỷ qua, Trung Quốc đã vươn lên vị trí hàng đầu thế giới về tỷ lệ tăng trưởng cao, kéo theo đó là sự phát triển về mọi mặt đời sống xã hội của nước này. Thông qua các chương trình hỗ trợ của Chính phủ, cuộc sống của người dân Trung Quốc đã được nâng cao cả về lượng và chất. Giá trị HDI của Trung Quốc liên tục được cải thiện. Năm 2003 chỉ số HDI là 0,755 tương ứng với vị trí 85/177 trong bảng xếp hạng HDI. Năm 2005 chỉ số HDI là 0,777 tương ứng với vị trí 81/177 trong bảng xếp hạng HDI. Chỉ số HDI tăng lên do giá trị các chỉ số thành phần (chỉ số giáo dục, chỉ số tuổi thọ và chỉ số kinh tế) đều có sự cải thiện đáng kể.
(2) Về giáo dục, chính phủ Trung Quốc thực hiện chủ trương đầu tư cho phát triển nhân lực, coi đây là tiền đề, nền tảng và động lực để phát triển đất nước bền vững. Phát triển giáo dục kỹ thuật và dạy nghề nhằm nâng cao chất lượng và kỹ năng của công nhân và cán bộ trung cấp; mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục đại học và sau đại học cũng là những ưu tiên trong chính sách giáo dục của Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc còn có những chính sách gửi sinh viên ra nước ngoài đào tạo, thu hút các sinh viên đã học xong trở về nước làm việc. Đặc biệt, sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, Trung Quốc thực hiện chủ trương bồi dưỡng nhân tài theo 3 hướng: hướng về hiện đại hóa, hướng ra thế giới và hướng tới tương lai. Chiến lược này thể hiện ý chí đưa giáo dục của Trung Quốc bắt kịp với các xu thế phát triển của thế giới, chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho tương lai. Việc đem lại các phúc lợi xã hội như y tế, giáo dục, hưu trí tốt hơn sẽ làm giảm nhu cầu tiết kiệm để đề phòng mà số tiền này sẽ được đưa vào tiêu dùng và đầu tư phát triển. Nhờ giáo dục, đào tạo, Trung Quốc đang giảm dần những tác động có hại đối với môi trường của sự tăng trưởng, nhất là tập trung vào phát triển những công nghệ sử dụng ít tài nguyên hơn.
(3) Hệ thống y tếan sinh xã hội của Trung Quốc, đặc biệt ở các thành phố, đã được cải thiện đáng kể trong 3 năm chuyển đổi kinh tế. Đến năm 2002 đã có khoảng 13 triệu trong gần 20 triệu người nghèo ở các đô thị Trung Quốc được hưởng trợ cấp từ chương trình này, đa số những người thất nghiệp, cán bộ hưu trí và các gia đình có thu nhập thấp, tăng 76% so với năm trước. Hệ thống này cho đến nay đã được thực hiện ở các khu đô thị nghèo ở Bắc Kinh, Giang Tô, Triết Giang và Quảng Đông.
Từ giữa những năm 1990, chế độ lương hưu và bảo hiểm xã hội ở Trung Quốc đã có sự thay đổi cơ bản, bảo hiểm hưu trí sẽ do cả người lao động và chủ doanh nghiệp đóng góp và áp dụng cho cả các xí nghiệp nhà nước. Hiện nay, ngày càng có nhiều xí nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước tham gia vào mạng lưới bảo hiểm xã hội. Mạng lưới bảo hiểm xã hội này đã được thực hiện đối với hàng trăm triệu công nhân và hàng chục triệu người nghỉ hưu.
(4) Về xóa đói giảm nghèo: Từ đầu những năm 1990, Trung Quốc đã đưa ra nhiều giải pháp tích cực để giải quyết vấn đề đói nghèo của dân cư và đã có những thành công nhất định. Theo kết quả điều tra hàng năm của Tổng cục Thống kê Trung Quốc với chuẩn nghèo của quốc gia cho các hộ gia đình nông dân là thu nhập bình quân đầu người ít hơn 4,1 NDT/ngày (0,5 USD), cho thấy tình trạng nghèo đói của Trung Quốc đã được cải thiện qua các năm. Năm 1995 có 56,6%, năm 2000 là 32,1%, năm 2001 là 30,2%, năm 2002 là 28,3%, năm 2003 là 26,5% số hộ nghèo. Đối chiếu với chuẩn nghèo quốc tế, mức thu nhập đầu người thấp hơn 8,2 NDT/ngày (ít hơn 1 USD/ngày) thì tỷ lệ hộ nghèo năm 1990 là hơn 33%, năm 2004 chỉ còn 10,8%, hiện nay chỉ khoảng 6%.
Tuy nhiên, tình trạng đói nghèo ở khu vực nông thôn vẫn chưa được cải thiện nhiều và có những dấu hiệu đáng báo động. Hàng chục triệu nông dân có cuộc sống vật chất không ổn định, tức là đang chịu cảnh nghèo đói và bán nghèo đói. Mặt khác, bất bình đẳng trong thu nhập đang có xu hướng gia tăng dẫn đến khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn, người giàu và người nghèo ngày càng dãn rộng. Khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp ngay chính trong khu vực thành thị cũng ngày càng gia tăng. Năm 2005, 20% dân cư nghèo nhất ở đô thị có thu nhập thấp chỉ bằng 2,75% tổng thu nhập tại các thành phố đó và chỉ bằng 4,6% tổng thu nhập của 20% người giàu nhất ở Trung Quốc. Do vậy, thành công trong cải cách mở cửa của Trung Quốc là to lớn, song cũng phải trả giá không nhỏ, mà một trong số đó là sự phân hóa ngày càng nghiêm trọng (hai cực Đông – Tây, giữa giàu – nghèo, thành thị – nông thôn). Sự phân hóa này chẳng những không mất đi cùng với phát triển kinh tế, mà dường như ngày càng sâu sắc, gay gắt hơn.
(5) Về phòng chống tham nhũng, Trung Quốc được đánh giá là một trong những nước đã có những cố gắng và thành công bước đầu trong công tác phòng, chống tham nhũng. Chính phủ Trung Quốc xác định giáo dục đạo đức cho công chức và xây dựng đội ngũ công chức trong sạch liêm khiết là biện pháp quan trọng đầu tiên để hạn chế tham nhũng. Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quốc đã ban hành các văn bản quy định về giáo dục đạo đức và xây dựng tác phong liêm chính trong Đảng và Nhà nước. Đồng thời tiến hành tuyên truyền, giáo dục cho người dân nhận diện được các hành vi tham nhũng, có thái độ căm ghét và tinh thần kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tạo ra môi trường xã hội chống tham nhũng. Giáo dục chống tham nhũng được thực hiện trên qui mô toàn Đảng, toàn xã hội và cả cho trẻ em. Chương trình giáo dục chống tham nhũng ở cấp tiểu học và trung học được đưa vào giảng dạy đầu tiên tại Hàng Châu từ năm 2005, sau đó lan rộng ra các tỉnh thành khác như Bắc Kinh, Quảng Châu, Thiên Tân, Hồ Bắc... Thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động mua sắm tài sản công của Nhà nước. Ban hành các quy định làm cho công chức không có cơ hội lợi dụng vị trí công tác của mình nhằm thu lợi cá nhân gây thiệt hại đến lợi ích chung. Trung Quốc có Luật Giám sát hành chính để giám sát công chức và đề ra “90 điều cấm” đối với cán bộ đảng viên. Ngày 31/12/2003, Đảng Cộng sản Trung Quốc ban hành Điều lệ Giám sát nội bộ và Điều lệ Xử lý kỷ luật của Đảng, trong đó xác định đối tượng giám sát trọng điểm là cơ quan lãnh đạo và cán bộ lãnh đạo các cấp, đặc biệt là người phụ trách của ban lãnh đạo. Trung Quốc Khuyến khích sự tham gia và phát huy vai trò to lớn của quần chúng nhân dân, các tổ chức xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng trong việc phát hiện, tố giác các hành vi tham nhũng đang là biện pháp nhằm phát hiện tham nhũng hữu hiệu nhất.
e) Xét theo nhóm chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng gắn với bảo vệ, phát triển tài nguyên, môi trường
Là một nước đông dân, Trung Quốc đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức trong phát triển kinh tế, gồm có các hạn chế ngày càng lớn về môi trường, quá trình gian nan về tái cơ cấu công nghiệp, và chênh lệch thu nhập đang tăng lên giữa thành thị và nông thôn. Ô nhiễm môi trường và việc thiếu tài nguyên cơ bản phục vụ phát triển kinh tế ngày càng trở thành vấn đề nổi cộm tại Trung Quốc. Về dầu mỏ, đến năm 2010, Trung Quốc sẽ phải nhập khẩu tới 50% nhu cầu... Trung Quốc biết rằng cần phải thay đổi để có thể đạt được sự tăng trưởng bền vững. Quốc gia này nhận thức rõ ràng rằng mọi tài nguyên đều có giới hạn và những ngành kinh tế tiêu thụ nhiều tài nguyên hiện đang được chấp nhận tại Mỹ sẽ là một thảm họa đối với Trung Quốc cũng như đối với thế giới. Một tỷ lệ lớn dân số Trung Quốc đang di chuyển tới các thành phố, do đó, yêu cầu đặt ra là phải tạo ra không gian sống thích hợp tại những thành phố này thông qua việc quy hoạch tỉ mỉ, đối với cả hệ thống giao thông và các công viên.
Chính vì vậy, bảo vệ môi trường đang trở thành một trong những vấn đề trung tâm của phát triển ở Trung Quốc. Trung Quốc là một trong những nước đi đầu trong việc xây dựng Chương trình Nghị sự 21 về phát triển bền vững của Trung Quốc (được Quốc vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thông qua và phê duyệt chương trình vào tháng 7/2004), trong đó công tác bảo vệ môi trường được quan tâm lồng ghép và thực hiện đồng thời với phát triển kinh tế - xã hội. Trong các kỳ kế hoạch hàng năm hay dài hạn của Nhà nước Trung Quốc cũng như của các địa phương đều dành một phần hoặc một chương mục riêng viết về phương hướng, nhiệm vụ và biện pháp phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm và hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác, Chính phủ Trung Quốc rất khuyến khích người dân tham gia công tác bảo vệ môi trường, đồng thời phạt hoặc đóng cửa những doanh nghiệp tiêu thụ nhiều năng lượng và gây ô nhiễm môi trường...
Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy quá trình tăng trưởng ở Trung Quốc đã nhanh chóng nâng cao mức sống nhưng đồng thời cũng huỷ hoại môi trường một cách nghiêm trọng, đặc biệt ô nhiễm không khí và nguồn nước ở các đô thị thuộc loại nghiêm trọng nhất thế giới. Mặc dù hàm lượng khí thải ra hầu như không thay đổi kể từ những năm 80, song lượng khí sunphua điôxit lại tăng mạnh. Hàm lượng các loại khí và khí sunphua điôxit thải ra ở Trung Quốc hiện lớn nhất thế giới. Ô nhiễm không khí đang ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân Trung Quốc. Tỷ lệ tử vong do bệnh phổi mãn tính, căn bệnh nguy hiểm gây tử vong nhiều nhất ở Trung Quốc, lớn gấp 5 lần so với ở Mỹ. Hàng năm, khoảng 15 triệu người dân đại lục mắc bệnh về hô hấp, khoảng 2 triệu người khác chết do ung thư. Mặt khác, Trung Quốc đang phải đối diện với tình trạng thiếu và ô nhiễm nguồn nước khá nghiêm trọng mặc dù ảnh hưởng của nó tới sức khoẻ của người dân Trung Quốc nhìn chung được hạn chế bởi việc sử dụng rộng rãi nước uống sạch và các biện pháp vệ sinh. Các bệnh có liên quan tới nước nói chung chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng số bệnh tật và dịch bệnh song tình trạng ô nhiễm ngày càng trầm trọng đã làm tăng chi phí của việc cấp nước sạch nói riêng và chi phí bảo vệ môi trường nói chung.
Bên cạnh đó, cơ cấu năng lượng chủ yếu lấy từ than của Trung Quốc chính là một nguyên nhân lớn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Khí sunfua điôxit và ôxit nitrơrat thải ra sẽ tạo phản ứng với nước và ôxy trong không khí thành axit sunfuric và axit nitơric có thể rơi xuống những vùng lân cận hoặc những vùng cách xa nơi gây ô nhiễm hàng ngàn dặm. Mưa axít phá huỷ mùa màng, tàn phá những cánh rừng, phá hỏng những cấu trúc các toà nhà và gây thiệt hại cho sức khoẻ con người. Những hậu quả này đặc biệt nghiêm trọng ở miền Nam Trung Quốc, nơi hàng ngày có một lượng lớn than và hàm lượng lớn sunfat cao đang bị đốt.
So với các nước đang phát triển, ô nhiễm môi trường của Trung Quốc chủ yếu không phải do quy mô quá lớn gây ra mà do kỹ thuật sản xuất lạc hậu, hiệu suất sử dụng năng lượng thấp, thêm vào đó quy mô sản xuất tăng nên lượng chất thải ngày càng gia tăng. Do quá trình đô thị hoá, công nghiệp hóa và cơ khí hóa diễn ra nhanh, các tập quán thâm canh trong nông nghiệp cũng làm phát sinh những đe dọa tới môi trường. Hơn nữa, mức sống của người dân được nâng cao, lượng phế thải sinh hoạt cũng tăng lên đáng kể, do đó mối đe dọa ô nhiễm môi trường của Trung Quốc vẫn sẽ tồn tại và khó loại trừ.
Kết luận chung về tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế và chất lượng tăng trưởng kinh tế được xem là hai mặt của cùng một vấn đề, chúng có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó chất lượng tăng trưởng ngày càng nổi lên như là mục tiêu trung tâm của quá trình tăng trưởng và phát triển. Đặc biệt cần lưu ý chất lượng tăng trưởng kinh tế là một khái niệm dùng để chỉ tính ổn định của trạng thái bên trong vốn có của mọi quá trình tăng trưởng kinh tế, là thuộc tính cơ bản hay đặc trưng tạo thành bản chất của tăng trưởng kinh tế trong một hoàn cảnh và giai đoạn nhất định.
Do vậy, trong quá trình phát triển kinh tế, yêu cầu đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn luôn phải gắn với yêu cầu không ngừng nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế để đảm bảo vừa tăng trưởng cao, ổn định, bền vững, vừa đảm bảo quá trình tăng trưởng mang lại lợi ích cho mọi người dân, mọi thế hệ hiện tại và tương lai.
Để thống nhất nhận thực trong nghiên cứu định lượng về tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng kinh tế, chương này đã khái quát lại những chỉ tiêu định lượng quan trọng nhất để đánh giá, phân tích tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng chỉ ra những nhân tố quan trọng nhất tác động đến tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng kinh tế. Trong khi những nhân tố chủ yếu tác động đến tăng trưởng kinh tế vẫn là những nhân tố truyền thống như vốn, lao động, tài nguyên, tiến bộ công nghệ (các nhân tố đầu vào) và đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu (đầu ra), thì những nhân tố tác động đến chất lượng tăng trưởng kinh tế lại ít quen thuộc và khó lượng hóa hơn, đặc biệt là những nhân tố thuộc lĩnh vực xã hội và môi trường để đảm bảo quá trình phát triển bền vững.
Trong chương này, chúng tôi cũng đã mô tả kinh nghiệm của ba nền kinh tế tiêu biểu trong khu vực Đông á là Malaixia, Thái Lan và Trung Quốc về quá trình tăng trưởng và và nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Đây đều là những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và có chất lượng trong khoảng thời gian dài nên những bài học rút ra từ kinh nghiệm của họ sẽ rất bổ ích đối với quá trình nâng cao tốc độ tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta.
Những bài học chủ yếu rút ra là tăng trưởng phải gắn với đảm bảo chất lượng tăng trưởng kinh tế, trong đó cần đặc biệt chú trọng nâng cao năng suất nhân tố tổng hợp, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, tiết kiệm chi phí trung gian; nâng cao năng suất lao động xã hội; nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước và nền kinh tế quốc dân; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa; ổn định tài chính tiền tệ; phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế, phúc lợi xã hội và giảm nghèo, bảo vệ, phát triển tài nguyên – môi trường... Trên cơ sở những bài học này, chúng ta sẽ nghiên cứu trường hợp Việt Nam trong chương tiếp theo.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét