Thứ Hai, 2 tháng 5, 2011

MỘT THẬP KỶ ĐỔI MỚI VÀ THỰC TRẠNG KINH TẾ NĂM 2000

Bài viết cũ của tôi cách đây đúng 10 năm:

MỘT THẬP KỶ ĐỔI MỚI VÀ
THỰC TRẠNG KINH TẾ NĂM 2000

Theo chúng tôi, tháo gỡ càng sớm những khó khăn vướng mắc cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài; thực hiện càng nhanh những cải cách kinh tế sâu sắc và toàn diện trong khu vực doanh nghiệp nhà nước; và cơ cấu lại càng kiên quyết hệ thống ngân hàng, thì càng sớm duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý và bền vững. 
Về tiền tệ, trong năm 2001, cần tiếp tục ưu tiên cho mục tiêu phục vụ tăng trưởng hơn là mục tiêu thiểu phát; do đó chính sách tiền tệ mở rộng phải tiếp tục được áp dụng. Tuy nhiên, đến giai đoạn này, cần chú ý nhiều hơn đến chất lượng các khoản cho vay và thận trọng hơn trong mỗi bước nới rộng tiền tệ. Về hoạt động ngoại hối, cần giảm các hạn chế hành chính và đẩy nhanh quá trình tự do hoá các giao dịch và sử dụng ngoại tệ; thực hiện cơ chế hình thành tỷ giá theo quan hệ cung cầu có sự tham gia điều tiết của chính phủ để đưa đồng tiền việt nam thành đồng tiền chuyển đổi đối với tài khoản vãng lai trong khoảng 5 năm tới. 
Trong năm 2001, cần phá giá đồng tiền Việt nam khoảng 20% để khôi phục và tăng thêm sức cạnh tranh về giá của hàng xuất khẩu của Việt nam. Đến nay, nền kinh tế nước ta đã mạnh hơn hẳn những năm đầu cải cách và mức độ mở cửa đã rất cao nên điều chỉnh tỷ giá sẽ có lợi đáng kể cho quá trình tăng trưởng.


1- MỞ ĐẦU
          Từ cuối những năm 1980, hầu hết các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã thực hiện những cải cách kinh tế dựa theo thị trường. Cũng giống như kinh nghiệm của các nước thuộc Liên xô cũ, Đông âu và Trung quốc, trường hợp Việt nam đã được thông tin rộng rãi[1]. Việt nam đã bắt đầu những cải cách kinh tế vĩ mô vào năm 1985 sau đại hội Đảng lần thứ VI, nhất là với việc tự do hoá giá cả trong khu vực nông nghiệp; tuy nhiên, tiếp theo bước đi này là một thời kỳ dài không tiếp tục các mục tiêu chính sách và tình trạng kinh tế vĩ mô xấu đi đến tận năm 1989-90 khi nhiều cải cách nghiêm túc hơn được bắt đầu. Trọng tâm của chương này sẽ là những bài học kinh tế vĩ mô rút ra từ chuyển đổi trong thời kỳ 1989-99 vừa qua ở Việt nam, bắt đầu từ những biện pháp chính sách có tính quyết định vào năm 1989-92, dẫn đến những thành tựu kinh tế vĩ mô cao trong giai đoạn 1992-97, tiếp theo là những cải cách ngần ngại hơn và kết quả là tỷ lệ tăng trưởng kinh tế giảm sút trong các năm 1998-99 cùng với sự hiện diện của cuộc khủng hoảng tài chính châu á. Chương này sẽ phân tích lịch trình chính sách chưa kết thúc vào giữa những năm 90 và những nhân tố chủ yếu dẫn đến những khó khăn kinh tế hiện nay của Việt nam vào năm 2000.
          Chương này sẽ nhìn lại tại sao Việt nam đã đạt được những thành tựu kinh tế vĩ mô đáng kể, cơ bản chuyển từ một nền kinh tế trì trệ, lạm phát cao và cô lập vào cuối những năm 1980 sang một nền kinh tế mở cửa, tăng trưởng bền vững và ổn định tài chính rộng rãi vào giữa những năm 90. Đặc biệt, chúng ta sẽ nghiên cứu tại sao Việt nam có thể cắt giảm lạm phát rất nhanh. Chương này cũng sẽ nhìn lại mối quan hệ giữa chính sách tỷ giá, chính sách tiền tệ và quá trình giảm phát. Dĩ nhiên, gắn chặt với quan hệ này là hiệu quả của chính sách thuế và giảm nhu cầu cần được tài trợ bằng nguồn tiền gây lạm phát. Hơn nữa, đã xuất hiện phản ứng đầy ấn tượng (và nhanh) của cung, dẫn đến những tỷ lệ tăng trưởng hàng năm tương đối cao. Mặc dù việc phân tích chi tiết phản ứng của cung nằm ngoài phạm vi nghiên cứu của chương này, ở đây cũng sẽ làm rõ những nhân tố then chốt tạo ra tăng trưởng sản xuất.
          Phần dưới đây của chương này được tổ chức như sau: Mục 2 cung cấp những thông tin cơ bản và tổng quan về những điều kiện ban đầu, những kết quả cơ bản và những chính sách cải cách. Mục 3 tập trung vào những chính sách kinh tế then chốt tạo nên quá trình ổn định vĩ mô trong khoảng thời gian tương đối ngắn, bao gồm các chính sách thuế, tiền tệ và tỷ giá, và cải cách doanh nghiệp Nhà nước. Mục 4 sẽ nhìn lại những khó khăn gặp phải và thảo luận những thách thức chưa được giải quyết cho thời kỳ tiếp sau, khi Việt nam trải qua giai đoạn tăng trưởng chậm do thất bại trong việc thực hiện những cải cách xa hơn, nhất là trong lĩnh vực cơ cấu, và do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu á năm 1997-98.
2- THÔNG TIN CƠ BẢN VÀ TỔNG QUAN
          Mục này cố gắng phân tích những điều kiện ban đầu của nền kinh tế Việt nam để xem xét triển vọng của cải cách, cả trên phương diện lịch sử lẫn qua so sánh với các nền kinh tế đang chuyển đổi khác. Mục này cũng xem xét những điều kiện cơ bản ban đầu và chiến lược cải cách được thông qua đã tác động như thế nào tới kinh nghiệm và kết quả kinh tế vĩ mô của Việt nam. Ngoài ra, khi cần, mục này cũng sẽ so sánh ngắn gọn một số điểm tương đồng với các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở châu âu.
          2.1 Những điều kiện ban đầu
          (i) Di sản của chiến tranh và sự cô lập. Sau cuộc chiến tranh Đông dương kéo dài ba thập kỷ nối tiếp những xung đột nội bộ và một thời kỳ dài tương đối bị cô lập về chính trị và kinh tế, tại điểm bắt đầu những cải cách kinh tế, Việt nam đã tiếp nhận một nền kinh tế bị tàn phá và một cuộc thống nhất hai miền đất nước với những hệ thống kinh tế và chính trị khác biệt. Bởi vậy, những thách thức đối với cải cách là đặc biệt to lớn. Những năng động trong chuyển biến kinh tế đã diễn ra trong bối cảnh một hệ thống chính trị hiện còn đề cao hệ tư tưởng cộng sản chủ nghĩa và các mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
          (ii) Thu nhập thấp và vai trò của nông nghiệp. Việt nam đã có thu nhập đầu người vào khoảng 200 USD với nông nghiệp là khu vực thống trị, chiếm khoảng một nửa tổng sản phẩm trong nước (GDP) và tạo ra hơn 80% việc làm. Khu vực công nghiệp có quy mô tương đối nhỏ (chiếm khoảng 25% GDP).
          (iii) Hệ thống kế hoạch hoá tập trung. Việt nam đã chính thức chấp nhận cơ chế kế hoạch hoá tập trung kiểu Liên xô trong đó hệ thống kinh tế bị quản lý cao độ. Khu vực nông nghiệp rộng lớn bị tập thể hoá thành các hợp tác xã sản xuất và phân phối. Giá xuất xưởng và thương mại nông sản được xác định theo phương thức hành chính[2]. Tem phiếu lương thực - hợp thành một phần tiền lương của công nhân viên chức - chỉ dùng được trong các cửa hàng nhà nước. Thương mại giữa các tỉnh bị hạn chế. Hơn nữa, về trợ cấp đầu vào và tiêu thụ đầu ra, các doanh nghiệp Nhà nước phải thực hiện theo những chỉ thị của Trung ương. Các doanh nghiệp này phải chuyển những khoản tiền định trước hàng năm vào ngân sách, bất kể kết quả tài chính của doanh nghiệp, và thường phải vay ngân hàng để tài trợ cho các hoạt động thường xuyên.
          Tuy nhiên, không giống như trường hợp khối Đông âu, trên thực tế, kế hoạch hoá tập trung chưa được áp dụng sâu sắc ở Việt nam. Vì thiếu một bộ máy có tổ chức, kế hoạch hoá tập trung chỉ được đưa vào một cách dè dặt và có mức độ; việc tập thể hoá và tập trung hoá cũng chưa được quán triệt đầy đủ. Vẫn tồn tại một di sản thị trường mạnh, đặc biệt là ở Miền Nam, tạo thuận lợi cho những cải cách dựa trên thị trường sau này.
          (iv) Các điều kiện kinh tế vĩ mô. Giai đoạn ngắn áp dụng kế hoạch hoá tập trung một phần đã mang lại những kết quả đáng thất vọng. Trước khi thực hiện các cải cách, Việt nam đã đối mặt với tăng trưởng chậm hoặc trì trệ và những khủng hoảng tài chính nghiêm trọng do những mất cân đối bên trong và bên ngoài gây ra. Những kiểm soát giá cả nội địa và ràng buộc chặt cả nội thương và ngoại thương đã sinh ra những thị trường song song về hàng hoá và ngoại tệ. Trong khi đó, cơ cấu kích thích méo mó đã tạo ra những thiếu hụt về cung.
          Hơn nữa, chính sách tín dụng và thuế lỏng đi kèm với những đòi hỏi vay mượn của các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ đã nuôi dưỡng lạm phát. Khi viện trợ và thương mại với các nước khối Hội đồng tương trợ kinh tế (CMEA) bị cắt đứt năm 1990-91, xuất khẩu của Việt nam đã giảm rất mạnh; đất nước gần như không còn dự trữ ngoại tệ. Ngoài ra, do mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế Việt nam thấp và do thiếu hoàn toàn niềm tin vào hệ thống ngân hàng nội địa, việc sử dụng nội tệ bị hạn chế trong khi tình trạng đô la hoá trở nên phổ biến. Thêm vào đó, do lãi suất thực âm quá lớn, các doanh nghiệp tư nhân quy mô nhỏ đã không tiếp cận được thị trường tín dụng chính thức.
          Kết quả là đã bùng nổ các hoạt động về tín dụng, hàng hoá và ngoại tệ trên thị trường phi hình thức. Sự kiện này cũng giải thích sự tồn tại của buôn lậu quy mô lớn và tương đối thiếu hệ thống thuế nội địa. Thêm nữa, một trong những đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế Việt nam trong thời kỳ này là vai trò quan trọng của khu vực phi hình thức. Khu vực này đã tham gia duy trì đà tăng trưởng kinh tế. Các hoạt động phi hình thức được giữ vững nhờ luồng vốn hàng năm đáng kể do cộng đồng đông đảo người việt hải ngoại chuyển về hỗ trợ cho cả tiêu dùng lẫn đầu tư trong nước (mặc dù chưa có những thông tin chính xác, những ước lượng sơ bộ cho thấy Việt nam đã nhận được khoảng 6-8 tỷ đô la Mỹ của người Việt hải ngoại trong thời kỳ 1975-90). Khi chưa có viện trợ chính thức từ bên ngoài trong thời gian này, nguồn hỗ trợ tài chính đáng kể trên đã duy trì được các thị trường song song ngày càng nở rộ.
          Trái với khu vực doanh nghiệp Nhà nước trì trệ dưới những chỉ thị kế hoạch hoá, kinh nghiệm tồn tại của khi vực phi hình thức và các thị trường song song đã làm cho giới lãnh đạo Việt nam sớm thừa nhận kế hoạch hoá tập trung đã không vận hành tốt. Sự thừa nhận này đã được củng cố thêm nhờ hiệu ứng "giới thiệu thành tựu" của các nền kinh tế láng giềng Đông á định hướng thị trường đang tăng trưởng nhanh. Điều này giải thích việc các nhà lãnh đạo đất nước đã nhanh chóng áp dụng những biện pháp cải cách toàn diện, phù hợp với tổng thể khung cảnh kinh tế vĩ mô, thậm chí ngay cả khi quản lý kinh tế vĩ mô còn thiếu nhiều công cụ thông dụng được sử dụng trong nền kinh tế thị trường.
          2.2 Những kết quả chủ yếu
          Đối diện với những thách thức đồng thời của chuyển đổi có tính hệ thống để tạo ra một nền kinh tế dựa trên thị trường và ổn định hoá để khôi phục các cân bằng kinh tế vĩ mô, những cố gắng cải cách đã mang lại nhiều tiến bộ đáng kể trên cả hai mặt trận. Một mặt, đến nay đã thiết lập được những phần tử cơ bản của hệ thống kinh tế định hướng thị trường, bao gồm: (i) hệ thống giá cả tự do; (ii) khu vực tư nhân năng động, tuy còn nhỏ, song tăng trưởng; (iii) chế độ ngoại thương mở cửa rộng rãi; và (iv) hoà nhập các hoạt động kinh tế phi hình thức rộng lớn vào các luồng của thị trường chính thức dựa trên luật pháp. Mặt khác, đã nhanh chóng thực hiện một bộ toàn diện các chính sách kinh tế vĩ mô kết hợp với một số biện pháp cơ cấu then chốt để giảm nhanh lạm phát trong một thời gian tương đôí ngắn. Sau đó, cố gắng ổn định kinh tế vĩ mô này tiếp tục được duy trì nhờ những biện pháp cải cách xa hơn để tăng phản ứng của cung, tăng tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, mở thêm việc làm và cải thiện mức sống của dân cư.
          Một trong những đặc trưng quan trọng nhất trong chuyển đổi sang kinh tế thị trường của Việt nam là thắng lợi lớn trong cắt giảm lạm phát trong khi vẫn duy trì được tăng trưởng sản xuất. Kinh nghiệm này hoàn toàn trái ngược với suy sụp sản xuất và gia tăng lạm phát trong các nền kinh tế đang chuyển đổi khác ở Đông âu và khối Liên xô cũ. Điểm khác biệt cơ bản của trường hợp Việt nam có lẽ là sự thận trọng trong từng bước đi của các biện pháp cải cách để tránh những xáo động lớn trong hoạt động sản xuất và hạn chế mức độ sa thải lao động. Các biện pháp này đều nhằm phát triển từng bước khu vực tư nhân mới, được đặc trưng bằng các doanh nghiệp năng động hướng về lợi nhuận, trong khi vẫn cải thiện hoạt động của hầu hết các doanh nghiệp nhà nước "già cỗi" trong những khu vực then chốt.
          Đặc biệt, việc tháo gỡ các hạn chế thương mại và các biện pháp tự do hoá giá cả đã mở ra những kích thích tiền tệ - gần như vắng mặt trong các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung - có tác dụng nhanh chóng hỗ trợ vào việc nâng cao tỷ lệ sử dụng các nguồn lực, nhất là trong khu vực nông nghiệp. Trái lại, sự sụp đổ đột ngột của cơ chế kế hoạch hoá tập trung ở các nước Đông âu cùng với đóng cửa nhiều doanh nghiệp Nhà nước - hầu hết trong các ngành công nghiệp nặng - trong giai đoạn đầu cải cách, đã làm sản xuất giảm rõ rệt, đổ vỡ mạng lưới phân phối và thất nghiệp nghiêm trọng.
          Cũng trong giai đoạn này, mở cửa ra thế giới bên ngoài của Việt nam đã định hướng lại luồng ngoại thương từ các nước khối CMEA sang khu vực đồng tiền chuyển đổi. Các luồng ngoại thương tăng lên cũng kéo theo bùng nổ đầu tư trực tiếp nước ngoài và viện trợ quốc tế. Kết quả là Việt nam đã tích luỹ được dự trữ ngoại tệ ở mức cần thiết so với gần như không có trước cải cách.
          Tiếp theo các biện pháp tự do hoá lúc đầu đóng góp vào sửa chữa cơ cấu giá méo mó và phân bổ sai lệch những nguồn lực, Việt nam đã phối hợp hài hoà các chính sách tài chính đi kèm với những cải cách hệ thống để đạt các mục tiêu ổn định hoá. Đặc biệt, dù tỷ giá không được dùng làm neo danh nghĩa trong giai đoạn đầu của chương trình ổn định vĩ mô, nhưng trên thực tế, nó đã giữ vai trò này trong bước đi tiếp theo sau khi tỷ giá chính thức được đưa sát với tỷ giá trên thị trường song song thông qua các chính sách tài chính mạnh. Do vậy, tỷ giá danh nghĩa ở Việt nam đã hầu như không đổi trong giai đoạn 1992-1995.
          Tỷ giá tương đối ổn định đi đôi với tăng thêm lòng tin vào hệ thống ngân hàng nội địa đã kéo theo việc sử dụng nội tệ gia tăng. Sự gia tăng này, đến lượt mình, đã hỗ trợ đáng kể vào việc hoà nhập các thị trường phi chính thức đa dạng vào các kênh chính thức. Trong khi đó, lạm phát đã giảm rõ rệt, từ trung bình khoảng 157%/ năm trong giai đoạn 1988-90 xuống 14%/ năm trong các năm 1994-95, và thậm chí xuống tới 4% trong các năm 1996-97, trong khi tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tăng từ 5% năm 1990 lên trung bình 8-9%/ năm trong các năm 1996-97.
          2.3 Lịch trình các chính sách
          Trong bước đi đầu tiên, Việt nam đã bắt đầu quá trình cải cách bằng tự do hoá giá cả và thương mại, cả trong thị trường nội địa lẫn trong các giao dịch quốc tế. Nhờ đó, những quyết định sản xuất, tiêu dùng và đầu tư của các tác nhân kinh tế ngày càng dựa trên các tín hiệu của thị trường. Tiếp theo, các nhà lãnh đạo thực hiện những cải cách có tính hệ thống để chuyển cơ chế quản lý kinh tế sang hệ thống dựa trên thị trường. Những cải cách này đã phi tập thể hoá khu vực nông nghiệp - khu vực vốn chưa được cơ khí hoá như ở các nước Đông âu - và đề cao hộ gia đình như là đơn vị sản xuất cơ sở, tăng quyền tự chủ lớn hơn cho các doanh nghiệp Nhà nước, và khuyến khích hội nhập nhiều hơn vào nền kinh tế thế giới. Các biện pháp này cũng được hỗ trợ bởi cải cách đất đai nhằm động viên sản xuất nông nghiệp và tăng thu nhập nội địa, nhờ đó giữ được mức tiêu dùng và cầu gộp tương đối tốt. Đồng thời khu vực tư nhân quy mô nhỏ nhưng rộng lớn đang có đã phản ứng mạnh để tăng đầu tư và cơ hội buôn bán, và bù lại mức suy giảm sản xuất do cầu nhập khẩu từ khối các nước CMEA biến mất.
          Sang bước hai, chiến lược đã nhấn mạnh vào ổn định kinh tế vĩ mô và, đặc biệt vào cắt giảm lạm phát. Do vậy, chính sách lãi suất cao và tín dụng chặt đã là những biện pháp đầu tiên để kiểm soát bùng nổ lạm phát có thể xảy ra do tự do hoá tiền lương và giá cả. Chính sách tỷ giá được sử dụng để giảm chênh lệch quá lớn giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá song song, trong đó tỷ giá song song được được sử dụng thành công để điều chỉnh dần tỷ giá chính thức trong từng giai đoạn. Các chính sách này đã đi kèm với tăng cường chính sách thuế, bao gồm các biện pháp tăng thu và giảm chi, và những cải cách cơ cấu khác, nhất là cải cách hệ thống ngoại thương và ngoại hối, khu vực tài chính và khu vực các doanh nghiệp Nhà nước.
3- CHƯƠNG TRÌNH ỔN ĐỊNH VÀ CÁC CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH
          Mục này sẽ xem xét tổng quan các biện pháp tự do hoá và phi tập thể hoá đã đóng góp vào sửa chữa cơ cấu giá méo mó và phân bổ sai lệch các nguồn lực, đảm bảo quá trình giảm phát với vai trò quyết định của chính sách tiền tệ và tỷ giá, kèm theo thắt chặt tài khoá và vai trò của một số cải cách cơ cấu và hệ thống có tác dụng hỗ trợ sản xuất, tạo thuận lợi cho các chính sách ổn định.
          (i) Tự do hoá giá cả và phi tập thể hoá nông nghiệp là những cải cách then chốt đầu tiên được áp dụng ở Việt nam. Chúng cho phép thay đổi dài hạn cánh kéo giá nội địa theo hướng ưu đãi cho nông nghiệp, khu vực chiếm tới 60% toàn nền kinh tế. Ảnh hưởng của chính sách này đặc biệt mạnh, làm cho Việt nam từ một nước nhập khẩu gạo trở thành nhà xuất khẩu gạo lớn thứ ba trên thế giới.
          (ii) Trong lĩnh vực sở hữu đất đai, Việt nam đã áp dụng hệ thống cho thuê và hợp đồng. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức về chấp nhận quyền sở hữu đầy đủ để có thể lôi cuốn đầu tư nước ngoài.
          (iii) Chính sách tiền tệ chặt và lãi suất cao là công cụ quan trọng nhất để mang lại ổn định giá cả. Giá cả đã ổn định so với nhiều năm của thời kỳ thiếu quản lý tài chính, gồm thiếu kiểm soát tiền tệ, cơ cấu lãi suất lệch lạc và hệ thống phân bổ tín dụng dựa trên những chỉ thị kế hoạch.
          Mặc dù hệ thống tài chính yếu kém và thiếu hầu hết các công cụ quản lý tiền tệ hiện đại khi bắt đầu quá trình ổn định hoá, các nhà lãnh đạo tiền tệ vẫn có thể lập lại kiểm tra tiền tệ khá nhanh. Tiếp đó, tăng trưởng tiền tệ bị cắt giảm rất nhanh nhờ sử dụng chính sách thuế chặt để giảm tài chính từ nguồn ngân hàng cho thâm hụt ngân sách và nhờ sử dụng các công cụ trực tiếp để giảm tín dụng cấp cho các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Hơn nữa, chính sách lãi suất cao đã được áp dụng với những kết quả đáng kể. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm đã tăng mạnh; nguồn vốn tiết kiệm đáng kể trước đây được giữ dưới nhiều hình thức khác nhau (chủ yếu dưới dạng vàng, đá quý và ngoại tệ) đã được huy động vào kênh tiết kiệm tài chính tại hệ thống ngân hàng nội địa.
          (iv) Những chuyển động hướng tới một nền kinh tế mở đã được dẫn dắt bởi quá trình cải cách hệ thống hối đoái, trong đó biện pháp then chốt là chính sách tỷ giá mềm dẻo dựa trên thị trường, được tiến hành qua hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu của quá trình giảm phát, Việt nam đã chấp nhận thống nhất sớm các tỷ giá, đưa tỷ giá chính thức bị định giá cao sát với tỷ giá thị trường song song, theo quan điểm xây dựng một tỷ giá phản ánh các điều kiện thị trường tốt hơn trong một hệ thống tỷ giá cố định hoặc thả nổi có quản lý. Trong giai đoạn hai, khi chênh lệch giữa hai tỷ giá đã giảm đáng kể, các nhà lãnh đạo quốc gia đã áp dụng các chính sách tài chính chặt để ổn định cả hai tỷ giá. Chính sách này đã vận hành hoàn toàn thắng lợi tại Việt nam vì theo sau nó là một thời kỳ ổn định tỷ giá kéo dài, làm mạnh quá trình giảm phát và hỗ trợ việc khôi phục lòng tin vào đồng tiền nội địa. Tỷ giá giữa tiền đồng Việt nam và ngoại tệ đã dao động trong một dải hẹp trong suốt thời kỳ 1992-95 (10.000-11.000 đồng / US$1).
          (v) Chính sách tiền tệ chặt trên đã được hỗ trợ bởi một chương trình điều chỉnh thuế kiên quyết, có tác dụng làm giảm đáng kể những mất cân bằng tổng thể về thuế và do đó, giảm nhu cầu tài chính bù đắp thâm hụt ngân sách. Đặc biệt, cán cân thuế thường xuyên đã chuyển từ thâm hụt cao sang thặng dư ngày càng tăng để tài trợ cho chi tiêu vốn cũng ngày một tăng. Về phía thu nhập, một trong những cải cách then chốt là thay thế hệ thống chuyển giao thoả thuận từ các doanh nghiệp Nhà nước sang chính phủ đã tồn tại từ lâu, bằng nghĩa vụ thuế được xác định rõ ràng - phần đầu và cơ bản nhất của những cải cách thuế đa dạng nhằm tạo ra một hệ thống thuế tương đối đơn giản nhưng minh bạch. Việt nam cũng đã cam kết kiểm soát chặt chi tiêu, nhất là giảm rất nhanh số lao động dịch vụ dân sự, cắt giảm mạnh trợ cấp, hạn chế tiền lương và kìm hãm đầu tư xây dựng cơ bản phù hợp với nguồn tài chính sẵn có từ bên ngoài.
          (vi) Một số cải cách cơ cấu quan trọng cũng được áp dụng để tăng cường những nền tảng của quá trình tăng trưởng kinh tế. Việt nam đã tự do hoá hệ thống ngoại thương và chế độ đầu tư nước ngoài trong thời kỳ 1989-95, nhờ đó đã thu được nhiều lợi ích. Tự do hoá nhập khẩu đã được thực hiện vững chắc, đặc biệt bao gồm loại bỏ sự độc quyền của khu vực nhà nước về một số loại hàng hoá và giảm các hạn chế định lượng. Tuy nhiên, do thị trường tài chính còn kém phát triển, lợi ích chính của tự do hoá chủ yếu được dồn cho những doanh nghiệp có nhiều thu nhập ngoại tệ trong khu vực nhà nước trong khi thị trường tiếp tục bị chia cắt.
          (vii) Tăng cường quản lý tiền tệ cũng được hỗ trợ đáng kể bởi một cuộc cải cách khu vực tài chính lớn, trong đó những thành phần chính là thiết lập có hiệu quả hệ thống ngân hàng hai cấp và mở rộng các công cụ kiểm tra tiền tệ của ngân hàng trung ương. Việc mở rộng các dịch vụ ngân hàng và quản lý ngày càng tốt hơn các ngân hàng thương mại đã làm tăng lòng tin vào hệ thống ngân hàng và là công cụ để tăng cầu tiền tệ và giảm vòng quay tiền tệ, từ đó tăng cường kiểm soát được lạm phát và ổn định tỷ giá, tăng trung gian tài chính và hấp dẫn thêm vốn đầu tư nước ngoài. Việc một số lượng lớn các ngân hàng nước ngoài đã mở cửa tại Việt nam là một bằng chứng rõ rệt.
          (viii) Khu vực doanh nghiệp Nhà nước cũng đã được cơ cấu lại một phần kèm theo một số tiến bộ trong việc xây dựng khuôn khổ thể chế và luật pháp cho những sáng kiến cá nhân. Trong khi khu vực tư nhân đã phản ứng tích cực, vẫn còn tồn tại những hạn chế đối với các hoạt động quy mô nhỏ, phần lớn là do tiếp tục những ưu đãi cho các doanh nghiệp Nhà nước. Ở Việt nam, việc thiên vị như vậy là một chính sách có chủ ý, xuất phát từ cam kết của hệ tư tưởng muốn duy trì một khu vực doanh nghiệp Nhà nước mạnh đi đôi với mối lo ngại về những ảnh hưởng "không mong muốn" của một khu vực tư nhân rộng lớn hơn. Đặc biệt, các nhà lãnh đạo đã lo ngại về khả năng mất nguồn thu thuế do các doanh nghiệp Nhà nước nộp (hơn một nửa tổng thu thuế) và tác động mất ổn định khi cắt giảm nhanh lao động trong khu vực công cộng.
4- LỘ TRÌNH KHÓ KHĂN ĐI TỚI MỘT NỀN KINH TẾ DỰA TRÊN THỊ TRƯỜNG: THỰC TRẠNG KINH TẾ NĂM 2000
          Mục này sẽ phân tích những diễn biến mới nhất của nền kinh tế Việt nam trước khi bước vào thế kỷ 21. Nhìn chung, kinh tế năm 2000 đã được cải thiện vượt bậc so với hai năm 1998-99 nhờ sản xuất nông nghiệp tiếp tục bội thu và kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh. Tuy nhiên, phục hồi kinh tế vẫn tỏ ra chưa vững chắc do phụ thuộc quá lớn vào môi trường bên ngoài, tỷ lệ đầu tư thấp và hiệu quả các khoản tín dụng và đầu tư chưa cao.
          4.1. Từ bối cảnh năm 1999 rất khó khăn
          Năm 1999 là thời điểm đặc biệt khó khăn đối với nền kinh tế Việt nam. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tụt xuống mức thấp nhất kể từ năm 1989 là 4,8%. Trước ngưỡng cửa năm 2000, ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực còn mạnh; dự đoán nhiều yếu tố quốc tế sẽ diễn biến không thuận trong năm 2000, tác động tiêu cực tới hoạt động xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài của Việt nam (trong đó có dự báo giảm mạnh giá xuất khẩu dầu thô so với quý 4/1999). Thiên tai ngày càng gia tăng, phá vỡ nhiều kỷ lục trong lịch sử; nhiều đợt mưa lũ đã càn đi, quét lại những vùng rộng lớn. Trong khi đó, những khó khăn nội tại của nền kinh tế ngày càng gay gắt: tiêu dùng và đầu tư trì trệ, sức mua toàn xã hội thấp, hàng hoá ứ đọng, hiệu quả kinh tế kém, luồng vốn đầu tư nước ngoài liên tục giảm sút, nợ nần giữa các ngân hàng và doanh nghiệp chồng chất chậm được giải quyết, số người thiếu việc làm và tình trạng bất ổn xã hội gia tăng...
          Năm 1999 cũng là năm đầu tiên kể từ nhiều thập kỷ qua, đã diễn ra tình trạng suy thoái đi kèm với thiểu phát và cung lớn hơn cầu. Nếu như trước đây, khan hiếm các nguồn lực và hàng hoá tiêu dùng là hiện tượng phổ biến khắp nơi, làm cho cơ chế bao cấp, xin - cho trở thành nguyên tắc chi phối toàn bộ cơ chế vận động của nền kinh tế nước ta thì trong suốt năm 1999, tình hình đã hoàn toàn đảo ngược: tình trạng dư thừa hàng hoá, dư thừa vốn và tiền tệ tràn lan, kéo theo giá hàng tiêu dùng giảm liên tục qua các tháng trong năm. Chính tình trạng này đã là nguyên nhân trực tiếp làm cho sản xuất không thể đi lên được.
          Trong bối cảnh như vậy, nhiều nhà kinh tế đã dự báo tình hình kinh tế năm 2000 sẽ khó khăn hơn, thậm chí Việt nam có thể rơi vào vòng xoáy suy thoái - thiểu phát như trường hợp Nhật bản trong thập kỷ 90. Từ chỗ cung vượt quá xa so với cầu, hàng hoá tồn đọng với quy mô lớn kéo theo tỷ lệ nợ quá hạn tại hệ thống ngân hàng tăng lên, rất dễ đi tới những mất cân đối cơ cấu trầm trọng hơn, nhất là cơ cấu tiết kiệm - đầu tư - tăng trưởng - việc làm - thu nhập - tiêu dùng, càng làm cho cầu yếu đi, kéo theo nguy cơ khủng hoảng kinh tế và xã hội.
          4.2. Đến những kết quả phát triển ngoài dự kiến năm 2000
          Tuy nhiên tình hình kinh tế năm 2000 đã sáng sủa hơn nhiều so với mọi dự kiến, và có thể nói Việt nam đã bước đầu đảo ngược được đà suy thoái kéo dài từ năm 1997 đến năm 1999, từng bước trở lại quỹ đạo tăng trưởng cao.
          Nhìn chung, thực hiện toàn bộ các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô năm 2000 tốt hơn so với năm 1999. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế (GDP) đạt 6,8% trong đó tỷ lệ tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước và tỷ lệ tăng trưởng của tất cả các ngành kinh tế đều cao hơn năm 1999. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 15,5% là mức cao nhất kể từ năm 1986 đến nay (chỉ thua năm 1992); tỷ lệ tăng trưởng tương đối đồng đều giữa các khu vực doanh nghiệp Nhà nước, khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của một số sản phẩm đã tăng lên trong khi tình trạng tồn đọng sản phẩm hầu như đã chấm dứt. Nông nghiệp tiếp tục gặt hái được những thành tựu mới với giá trị sản xuất tăng 4,3%; sản lượng lương thực quy thóc đạt 34,5 triệu tấn, cao nhất từ trước đến này. Nhờ sản xuất phát triển, đã có nhiều việc làm mới được mở ra; nếu kể cả số việc làm được mở ra nhờ những chương trình phát triển gắn với tạo việc làm bằng vốn ngân sách thì trong năm 2000 đã giải quyết việc làm cho 1,3 triệu lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp tại thành thị từ 7,4% năm 1999 xuống còn 6,5% năm 2000. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước cũng giảm tương ứng từ 13,1% xuống còn 1%.
          Xuất khẩu đã duy trì được tốc độ tăng trưởng gần bằng năm 1999, đạt 19,6%, nhờ tăng khối lượng xuất khẩu tất cả các mặt hàng chủ lực dù giá xuất tiếp tục giảm (chỉ có giá dầu thô là tiếp tục tăng ở mức cao). Giá trị nhập khẩu năm 2000 tăng trưởng tới 24,8% (năm 1999 giảm ...) trong đó nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu và máy móc thiết bị phục vụ sản xuất tăng trưởng rất mạnh, còn nhập khẩu hàng tiêu dùng giảm tới 20%; đây cũng là một bằng chứng cho thấy đã xuất hiện quá trình phục hồi kinh tế tại Việt nam. Nhập siêu năm 2000 khoảng 700 triệu USD, tương đương với 5% kim ngạch xuất khẩu và bằng 2,2% GDP; nhờ đó, cán cân thanh toán quốc tế tiếp tục được cải thiện. Cán cân thanh toán vãng lai trên GDP đã chuyển từ thâm hụt 4,6% năm 1998 sang thặng dư 2,6% năm 1999 và 2,2% năm 2000. Nhờ thặng dư cán cân thanh toán quốc tế, dự trữ ngoại tệ tiếp tục tăng lên, cơ chế kiểm soát ngoại hối đã được nới lỏng dần, đặc biệt là đã áp dụng chính sách tỷ giá mềm hơn từ năm 1999 và chuyển sang cơ chế lãi suất ngoại tệ tự do hơn từ tháng 8/2000. Tỷ giá đồng Việt nam so với đồng đô la Mỹ ổn định trong suốt năm 2000 mặc dù trên thị trường quốc tế, đồng đô la có xu hướng lên giá rất mạnh.
          4.3. Và nguyên nhân cơ bản của những thành tựu
          Nguyên nhân cơ bản làm cho kinh tế Việt nam bước đầu thoát khỏi vòng xoáy suy thoái - thiểu phát là những chính sách kiên quyết và phù hợp của Chính phủ Việt nam nhằm tháo gỡ những khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của tất cả các thành phần kinh tế. Đồng thời chính phủ cũng đã chủ động thực hiện chương trình kích cầu đầu tư và tiêu dùng rộng lớn để lôi kéo toàn nền kinh tế phát triển. Một số giải pháp cơ bản đã áp dụng gồm:
          (i) Các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất:
          Đối với sản xuất nông nghiệp, chính phủ đã ban hành vào tháng 2/2000 Nghị quyết về phát triển kinh tế trang trại, vào tháng 6/2000 Nghị quyết về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và tiêu thụ hàng hoá nông sản, vào tháng 7/2000 Nghị quyết về một số giải pháp điều hành kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 6 tháng cuối năm 2000, trong đó tập trung xử lý những khó khăn lớn nhất của sản xuất nông nghiệp, trước hết là giá nông sản, tiêu thụ nông sản trên thị trường nội địa và khuyến khích xuất khẩu nông sản. Ngoài ra, chính phủ đã cho phép các ngân hàng quốc doanh giảm tối đa các thủ tục hành chính để tăng cường vốn tín dụng cho khu vực nông thôn và đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp.
          Đối với sản xuất công nghiệp, bên cạnh việc ban hành nhiều chính sách hỗ trợ các ngành sản xuất sản phẩm có khả năng cạnh tranh như miễn giảm thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, hỗ trợ lãi suất tín dụng..., chính phủ đã đẩy nhanh chương trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước và tích cực triển khai áp dụng Luật doanh nghiệp ngay từ đầu năm 2000. Việc bãi bỏ 145 giấy phép kinh doanh các loại sau hai đợt (tháng 2 và tháng 8), tạo ra môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, thông thoáng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển sản xuất. Nhờ có Luật doanh nghiệp, số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh năm 2000 tăng vọt so với năm 1999 (năm 2000 có khoảng 12000 doanh nghiệp tư nhân đăng ký kinh doanh mới và hàng vạn doanh nghiệp tư nhân khác tăng thêm vốn sản xuất); vốn đầu tư của khu vực tư nhân cũng tăng tới mức chưa từng có là 38,1% so với năm 1999 (chỉ sau mức 40% năm 1992).
          (ii) Các giải pháp tài chính, tiền tệ và tín dụng
          Chính sách nới lỏng tài chính được thực hiện từ quý 2/1999 kéo dài đến hết năm 2000 đã thực sự đóng góp to lớn vào quá trình phục hồi kinh tế vì vừa làm cho thu nhập của dân cư tăng lên, vừa kích thích khu vực tư nhân đầu tư phát triển. Mặc dù có nhiều nhân tố làm nguồn thu tăng lên như giá dầu thô tăng đột biến (làm thu ngân sách tăng thêm 10.000 tỷ đồng) và hiệu quả của các biện pháp thu thuế tăng lên (cơ bản cải cách và hoàn chỉnh xong các luật thuế mới, tận thu các nguồn thu cũ, cho phép các địa phương thu vượt kế hoạch và dùng khoảnchênh lệch để tự đầu tư...), nhưng tỷ lệ thu ngân sách trên GDP tiếp tục giảm trong năm 2000, xuống còn 18,2% so với 18,6% năm 1999, 19% năm 1998 và 21,1% năm 1997.
          Trái lại, tỷ lệ chi ngân sách trên GDP vẫn tăng lên, trong đó phần tăng chủ yếu là chi đầu tư phát triển. Trong năm 2000, chính phủ đã hai lần bổ xung thêm vốn ngân sách cho đầu tư phát triển với tổng số tiền khoảng 6000 tỷ đồng. Bội chi ngân sách năm 2000 bằng khoảng 5% GDP[3].
          Tương tự, chính sách tiền tệ đã được nới lỏng thêm một bước so với năm 1999, nhất là vào hai quý cuối năm 2000, với tổng phương tiện thanh toán tăng 25%, huy động vốn tăng 25% và dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế tăng khoảng 20% (các chỉ tiêu này năm 1999 lần lượt là 27%, 25% và 13%). Trong năm 2000, chính phủ đã cho phép các tổ chức tín dụng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với các doanh nghiệp Nhà nước, nới lỏng các điều kiện về đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng, nhất là đối với các hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh. Các ngân hàng thương mại đã bám sát hơn các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân để tăng cường cho vay, nâng mức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản lên trên mức 10 triệu đồng đối với các hộ gia đình sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và làm kinh tế trang trại, đồng thời mở rộng số đối tượng được vay ngoại tệ như các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp làm ăn có lãi và có khả năng tái tạo ngoại tệ, và các cá nhân người lao động cần vốn để đi lao động ở nước ngoài. Đặc biệt, đã thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cố định bằng cơ chế lãi suất cơ bản, cơ chế kiểm soát ngoại hối và tỷ giá chặt bằng cơ chế mềm và linh hoạt hơn, nhờ đó lãi suất và tỷ giá đã vận hành sát với quan hệ cung cầu trên thị trường. Năm 2000, lãi suất đã giảm nhẹ so với năm 1999 nên càng tạo thêm những thuận lợi mới cho đầu tư.
          (iii) Đầu tư, tiêu dùng và lạm phát
          Những giải pháp cơ cấu, tài chính, tiền tệ và tín dụng nêu trên đã tạo ra bước thay đổi lớn trong đầu tư, tiêu dùng và giá cả, dẫn tới tăng tổng cầu, tăng trưởng GDP trong bối cảnh thu nhập từ xuất khẩu tiếp tục tăng lên.
          Đầu tư toàn nền kinh tế năm 2000 đã tăng trưởng mạnh sau hai năm trì trệ. Tỷ lệ tăng trưởng năm 2000 lên tới 20% so với 1,9% năm 1999, làm cho tỷ lệ đầu tư trên GDP tăng lên 27,9% so với 26% năm 1999. Đặc biệt, trong khi đầu tư từ nguồn vốn ngân sách chỉ tăng 10,4% và tín dụng đầu tư chỉ tăng 10,5% (dù vẫn tiếp tục nới lỏng chính sách tài chính, tiền tệ) thì đầu tư bằng vốn tự huy động của khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng tới 15,8%, đầu tư của khu vực dân cư và tư nhân tăng 38,1% và đầu tư của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 18,5%. Hơn nữa, phần lớn số đầu tư tăng thêm là từ nguồn nội địa, trong khi cơ cấu đầu tư đã chuyến biến mạnh theo hướng tăng hiệu quả và đầu tư vào khu vực nông thôn rộng lớn.
          Tiêu dùng xã hội đã tăng tới 20,1% trong đó riêng tiêu dùng cá nhân tăng 9,7% so với năm 1999 (theo giá hiện hành). Các biện pháp kích cầu tiêu dùng của chính phủ, gồm tăng tín dụng cho tiêu dùng và tăng 25% tiền lương trong khu vực Nhà nước ngay từ đầu năm 2000 đã góp phần đáng kể vào tăng tiêu dùng xã hội. Tiêu dùng các sản phẩm lâu bền cũng tăng lên đáng kể; ví dụ nếu trong 6 tháng đầu năm 1999, số xe máy tiêu thụ tăng 42,8%, tivi giảm -4% và ô tô các loại tăng 60,9% thì trong 6 tháng đầu năm 2000, các chỉ số tăng trưởng lần lượt là 50,3%, 37% và 76,4%. Kết quả là doanh số bán lẻ 6 tháng đầu năm 2000 tăng 8% so với 4% năm 1999 và 1% năm 1998.
          Giá tiêu dùng sau nhiều tháng giảm liên tiếp đã tăng trở lại từ tháng 8/2000, dự kiến cả năm tăng 2% so với mức 0,1% năm 1999. Đặc biệt, chỉ số giá GDP đã tăng tới 3,7% phản ánh sự tăng trở lại của giá tư liệu sản xuất; điều này chứng tỏ cầu hàng hoá đầu tư đã tăng lên nhanh. Tuy nhiên, giá hàng lương thực thực phẩm vẫn đứng ở mức thấp nên đã ảnh hưởng tiêu cực tới thu nhập của nông dân. Mặt khác, giá nhập khẩu một số loại hàng hoá tăng nhanh (xăng dầu và các hoá chất có gốc từ dầu mỏ, phân bón...) cũng gây ảnh hưởng bất lợi tới sản xuất của các doanh nghiệp và cánh kéo giá hàng nông nghiệp và hàng công nghiệp.
          Như vậy, nguyên nhân trực tiếp của phục hồi kinh tế năm 2000 ở Việt nam là tăng trưởng đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu, trong khi nguyên nhân sâu xa là đã có những thay đổi lớn về cơ chế, chính sách theo hướng vừa tháo gỡ các khó khăn cho đầu tư, sản xuất và xuất khẩu của mọi thành phần kinh tế, vừa chủ động kích cầu đầu tư và tiêu dùng bằng nguồn vốn ngân sách và vốn của hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh.
          4.4. Tuy nhiên, lộ trình tiến tới kinh tế thị trường còn nhiều khó khăn
          Mặc dù tình hình kinh tế năm 2000 đã cơ bản thay đổi so với năm 1999 theo nghĩa xu hướng suy thoái đã bị đảo ngược và khả năng tăng trưởng nhanh hơn đã được mở ra, nhưng con đường phát triển phía trước còn hết sức khó khăn, đòi hỏi các nhà lãnh đạo Việt nam phải tiếp tục đẩy nhanh chương trình cải cách hướng tới cơ chế kinh tế thị trường.
          (i) Tình hình kinh tế trong nước vẫn rất khó khăn
          Sản xuất công nghiệp phục hồi chủ yếu dựa vào tăng trưởng xuất khẩu, nhưng sắp tới xuất khẩu khó có thể tăng trưởng nhanh như thời gian vừa qua vì thị trường thế giới đã gần đến mức giới hạn đối với những mặt hàng xuất khẩu không đa dạng của Việt nam. Khối lượng và giá dầu thô cũng sẽ không tăng nhanh như trước trong khi quota xuất khẩu hàng dệt may sang châu âu sẽ bị giới hạn. Ngoài ra, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như gạo, giầy dép, cà phê, cao su, than đá... đang tăng trưởng chậm dần, riêng xuất khẩu gạo năm 2000 giảm 16% về khối lượng và 30% về giá trị.
          Đầu tư đã tăng trưởng trở lại nhưng tỷ lệ đầu tư trên GDP thấp, hiệu quả đầu tư kém và cơ cấu đầu tư bất hợp lý đang là mối lo lớn nhất hiện nay. Đặc biệt, nhiều công trình đầu tư bằng vốn tín dụng, nhất là các công trình thuộc khu vực doanh nghiệp nhà nước, đã đi vào hoạt động, nhưng không sinh lời và không có khả năng trả nợ, hiện đang ảnh hưởng xấu tới tình trạng tài chính của hệ thống ngân hàng, trong khi xu hướng này đang tiếp diễn. Việc tập trung đầu tư quá mức cho một số ngành, chủ yếu là các ngành thay thế nhập khẩu, kém hiệu quả và không có sức cạnh tranh, đang tiếp tục gây thêm những mất cân đối vĩ mô, trong khi ở nhiều ngành khác, nhu cầu thị trường còn cao nhưng không có đủ nguồn nguyên liệu đầu vào cung ứng. Rõ ràng xu hướng cơ cấu như trên tiếp tục chứa đựng nguy cơ đưa nước ta đi vào vòng nguy hiểm vì càng tăng đầu tư, hiệu quả càng kém và càng dễ đi đến khủng hoảng. Trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, vốn cam kết và vốn giải ngân vẫn liên tục giảm sút và chưa có dấu hiệu phục hồi trong tương lai gần vì các nhà đầu tư vẫn tỏ ra thất vọng về tình trạng hành chính quan liêu và tệ tham nhũng ở Việt nam.
          Nguy cơ khủng hoảng cũng tiềm ẩn trong chính sách nới lỏng tài chính tiền tệ quá mức và kéo dài. Mặc dù tỷ lệ thâm hụt ngân sách và tốc độ tăng trưởng tiền tệ năm 2000 được coi là hợp lý trong chính sách kích cầu của Nhà nước, nhưng dường như những tỷ lệ và tốc độ này đã vượt quá nhu cầu đầu tư có hiệu quả của nền kinh tế. Nhiều dự án được triển khai vì lý do chính trị hơn là hiệu quả kinh tế. Nhiều dự án đầu tư khác chưa đảm bảo chắc chắn tính hiệu quả, kể cả những dự án đầu tư rất lớn, vẫn được triển khai. Trong tương lai nếu các dự án này thất bại thì gánh nặng tài chính đối với hệ thống ngân hàng sẽ rất nghiêm trọng. Mặt khác, cũng không loại trừ khả năng tái lạm phát cao trong vài năm tới nếu không dừng chính sách tiền tệ mở rộng đúng lúc.
          Cải cách cơ cấu được tiến hành mò mẫm dựa theo nhu cầu trước mắt của nền kinh tế chứ không theo một chương trình tổng thể kéo dài nhiều năm. Luật Doanh nghiệp ra đời đã mang lại một luồng gió mới cho khu vực tư nhân, những việc áp dụng cụ thể trong đời sống còn rất nhiều khó khăn do nhiều ngành, nhiều cấp tiếp tục gây khó dễ để mưu cầu lợi ích riêng, làm cho tình trạng trên thoáng, dưới chặt còn rất phổ biến. Nhiều vấn đề cơ bản khác như xác định vị trí của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền, sở hữu tư nhân về đất đai, độc quyền và bán độc quyền trong các ngành kinh tế,... vẫn chưa được làm rõ. Quá trình cổ phần hoá và cơ cấu lại các doanh nghiệp Nhà nước vẫn diễn ra rất chậm do gặp nhiều lực cản về chính trị, kinh tế và xã hội. Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh và ngoài quốc doanh, cải tiến các biện pháp quản lý và theo dõi hoạt động ngân hàng của Ngân hàng trung ương cũng như tạo lập một sân chơi bình đẳng cho tất cả các ngân hàng thương mại cũng đang trong tình trạng tương tự. Tháng 6/2000, Việt nam đã sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam, nhưng điểm yếu nhất trong thu hút đầu tư nước ngoài vẫn chưa được giải quyết; đó là tình trạng trong khi các quy định của Luật rất thông thoáng, cởi mở, thì các văn bản dưới luật lại bó hẹp các ưu đãi lại và cơ chế thực thi luật rất khó khăn.
          (ii) Ảnh hưởng của kinh tế thê giới ngày càng lớn và phức tạp
          Kinh nghiệm những năm gần đây cho thấy nền kinh tế nước ta ngày càng bị ràng buộc chặt chẽ với nền kinh tế thế giới. Sự ràng buộc này không chỉ được thể hiện trong các quan hệ ngoại thương và đầu tư nước ngoài - hai động lực tăng trưởng thuộc loại quan trọng nhất đối với nền kinh tế nước ta trong suốt thập kỷ 90 và những năm tiếp theo - mà cả trong các quan hệ khác, từ viện trợ ODA đến hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn quản lý, xây dựng kế hoạch và dự án... đi tới phối hợp xây dựng các quy tắc, chuẩn mực hợp tác kinh tế, chính trị, xã hội trên quy mô toàn cầu. Hơn nữa, mở cửa ra bên ngoài không chỉ luôn luôn gặp thuận lợi như những năm trước năm 1998 mà còn có thể phải chịu nhiều ảnh hưởng xấu, tiêu cực. Tình trạng giảm giá kéo dài, việc thị trường không phản ứng theo quy luật thông thường trước những thay đổi chính sách - ví dụ khi lãi suất giảm nhanh và liên tục, nhưng tốc độ tăng trưởng tiết kiệm vẫn tăng, nhu cầu đầu tư vẫn trì trệ - có phần đóng góp quyết định của các nhân tố nước ngoài.
          Với những nhận thức trên, để đảm bảo quá trình phục hồi vững chắc, kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững và hội nhập với trào lưu quốc tế, nền kinh tế định hướng thị trường của Việt nam phải được cơ cấu lại theo hai nguyên tắc: vững chắc và có khả năng phản ứng linh hoạt với những bất trắc của tình hình kinh tế trong nước và quốc tế. Trên nền tảng kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, tính vững chắc của cấu trúc kinh tế phải mang hạt nhân căn bản là môi trường kinh doanh lành mạnh để mọi thành phần kinh tế đều có khả năng phát huy mọi tiềm năng phát triển của mình. Đồng thời để đảm bảo tính linh hoạt, uyển chuyển, cần tăng cường khả năng phản ứng nhanh, chính xác của bộ máy điều hành kinh tế vĩ mô của đất nước (Chính phủ) và năng lực quản trị kinh doanh vi mô của các doanh nghiệp.
          (iii) Một số biện pháp ngắn hạn trong lộ trình cải cách
          Những phân tích nêu trên cho thấy cần phải nhanh chóng có những giải pháp quyết đoán để vừa duy trì và đẩy nhanh xu hướng phục hồi kinh tế hiện nay, vừa đảm bảo không để xảy ra khủng hoảng trong tương lai do hiệu quả kinh tế thấp trong khi tiêu dùng tăng quá nhanh. Theo chúng tôi, tháo gỡ càng sớm những khó khăn vướng mắc cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài; thực hiện càng nhanh những cải cách kinh tế sâu sắc và toàn diện trong khu vực doanh nghiệp nhà nước; và cơ cấu lại càng kiên quyết hệ thống ngân hàng, thì càng sớm duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý và bền vững. Đối với chính sách tài chính tiền tệ, do đầu tư của khu vực tư nhân đã tăng lên nhanh nên cần tiếp tục nới lỏng trong tầm kiểm soát để nâng đỡ quá trình tăng trưởng, nhưng trọng tâm then chốt từ năm 2001 là nâng cao hiệu quả và chất lượng vốn đầu tư.
          Trước mắt, trong năm 2000, cần cơ cấu lại các ngành kinh tế theo hướng tăng nhanh hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đối với sản xuất nông nghiệp, cần bố trí lại sản xuất theo nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế; tạo nhiều thuận lợi hơn nữa cho người sản xuất về vay tín dụng ngân hàng, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, trực tiếp mua bán hàng hoá trên thị trường quốc tế; xử lý tốt vấn đề sở hữu đất đai để giúp nông dân phát triển mạnh kinh tế trang trại. Đối với sản xuất công nghiệp và dịch vụ, cần định hướng lại các ngành, hàng để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm; nới lỏng nhanh các điều kiện kinh doanh và cho phép các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được kinh doanh trong hầu hết các ngành sản xuất và dịch vụ để khai thác hết tiềm năng vốn và trí tuệ của họ; đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại khu vực doanh nghiệp nhà nước; giảm các ưu đãi dành cho khu vực này để tạo ra một sân chơi bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; cải tiến các hoạt động hải quan để khuyến khích xuất khẩu và thu hút khách du lịch.
          Về tài chính, cần tiếp tục đổi mới các hoạt động theo hướng làm minh bạch hệ thống thuế để vừa dễ áp dụng, vừa hạn chế tối đa các tiêu cực trong quá trình thực hiện các luật thuế; tiếp tục nới lỏng chính sách tài chính theo hướng đưa tỷ lệ thâm hụt ngân sách lên khoảng 6% GDP[4], trong đó phần chi tăng lên sẽ được ưu tiên dành để đầu tư phát triển dài hạn và tăng lương cho khu vực hành chính sự nghiệp (kích cầu đầu tư và tiêu dùng). Tuy nhiên, cùng với tăng đầu tư công cộng, cần có ngay những biện pháp để nâng cao hiệu quả đồng vốn. Chính phủ cũng nên xem xét dùng một khoản chi ngân sách để thanh toán hết nợ đọng của chính phủ đối với các doanh nghiệp và xử lý dứt điểm những khoản nợ tồn tại từ nhiều năm giữa ngân hàng và các doanh nghiệp (trong đó có nhiều khoản nợ không hợp lý từ trước năm 1989 để lại) nhằm tạo ra một môi trường mới, lành mạnh hơn cho sự phát triển chung của đất nước.
          Về tiền tệ, trong năm 2001, cần tiếp tục ưu tiên cho mục tiêu phục vụ tăng trưởng hơn là mục tiêu thiểu phát; do đó chính sách tiền tệ mở rộng phải tiếp tục được áp dụng. Tuy nhiên, đến giai đoạn này, cần chú ý nhiều hơn đến chất lượng các khoản cho vay và thận trọng hơn trong mỗi bước nới rộng tiền tệ. Trước mắt, cần có các giải pháp khuyến khích các ngân hàng thương mại tăng tốc độ cho vay theo các nguyên tắc của kinh tế thị trường, trong đó những đối tượng ưu tiên chính là các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các hộ nông dân[5]. Bỏ hạn ngạch tín dụng, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tự do hoá lãi suất, tiến tới ổn định lãi suất thấp ở mức hợp lý. Tiếp tục phát triển các công cụ hiện đại trong quản lý tổng cung tiền tệ; nhanh chóng cơ cấu lại các ngân hàng thương mại, kiên quyết sát nhập hoặc giải thể các ngân hàng thương mại yếu kém và thua lỗ; xử lý dứt điểm nhiều khoản nợ quá hạn để sớm lành mạnh hoá hệ thống tài chính. Chấm dứt ngay tình trạng can thiệp hành chính vào hoạt động cho vay tín dụng của các ngân hàng thương mại.
          Về hoạt động ngoại hối, cần giảm các hạn chế hành chính và đẩy nhanh quá trình tự do hoá các giao dịch và sử dụng ngoại tệ; thực hiện cơ chế hình thành tỷ giá theo quan hệ cung cầu có sự tham gia điều tiết của chính phủ để đưa đồng tiền việt nam thành đồng tiền chuyển đổi đối với tài khoản vãng lai trong khoảng 5 năm tới. Trong năm 2000, cần phá giá đồng tiền Việt nam khoảng 20% để khôi phục và tăng thêm sức cạnh tranh về giá của hàng xuất khẩu của Việt nam. Đến nay, nền kinh tế nước ta đã mạnh hơn hẳn những năm đầu cải cách và mức độ mở cửa đã rất cao nên điều chỉnh tỷ giá sẽ có lợi đáng kể cho quá trình tăng trưởng.

Đoạn kết luận tôi không viết mà dành cho một giáo sư viết.

Tài liệu tham khảo:
The World Bank Vietnam (2000) "Viêtnam Autumn Update - September 2000".
Lê Văn Châu (2000) "Kinh tế Việt nam trước những thời cơ và thách thức", Báo Nhân dân tháng 1/2000.



[1] Xem "Việt nam: Chuyển đổi sang kinh tế thị trường", Chuyên san không định kỳ của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, số 135, Tháng 3, 1996.
[2] Hệ thống giá được quản lý chặt chẽ với khoảng 70% giá (hầu hết liên quan tới giá các loại lương thực và những hàng hoá thiết yếu, cơ bản khác) ở Lào và Việt nam được Chính phủ quản lý.
[3] Cách tính cân đối ngân sách của Việt nam khác với phương pháp quốc tế. Nếu theo phương phát quốc tế, tỷ lệ thâm hụt ngân sách của Việt nam chỉ là -1,4% năm 1997, -1,1% năm 1998, -1,5% năm 1999 và -2,4% năm 2000. Xem the World Bank Vietnam (2000) "Viêtnam Autumn Update - September 2000".
[4] Tuy nhiên, sau năm 2001, khi nền kinh tế đã trở lại tỷ lệ tăng trưởng 7,5-8% và đầu tư tư nhân đã trở nên vững chắc thì cần giảm nhanh tỷ lệ thâm hụt ngân sách về khoảng 3-4% GDP.
[5] Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở nước ta có nguyên nhân là tập trung đầu tư quá nhiều cho các doanh nghiệp sử dụng nhiều vốn, ít lao động. Tình hình này xuất phát từ xu hướng dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng thay thế nhập khẩu. Hậu quả là không tận dụng được lợi thế so sánh quốc tế lớn nhất của ta là nguồn lao động dồi dào, giá rẻ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét