Chủ Nhật, 8 tháng 5, 2011

CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG 15 NĂM ĐỔI MỚI VÀ NHỮNG THÁCH THỨC KHI BƯỚC VÀO THẾ KỶ 21

Bài viết của tôi cách đây 12 năm (1999):
 
CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG 15 NĂM ĐỔI MỚI
VÀ NHỮNG THÁCH THỨC KHI BƯỚC VÀO THẾ KỶ 21.

         Toàn bộ những tiến triển về tăng trưởng sản xuất, thay đổi cơ cấu, đầu tư và xuất khẩu của công nghiệp trong giai đoạn từ khi đổi mới đến nay (tức là đến năm 2000) có thể được lý giải bằng hai lý thuyết kinh tế chính: Lý thuyết tự do hoá kinh tế đi kèm phá giá nội tệ và lý thuyết nhập khẩu vốn kéo theo hiện tượng đánh (định) giá cao nội tệ, trong đó lý thuyết tự do hoá kinh tế đi kèm phá giá nội tệ là cơ sở để giải thích tiến triển công nghiệp giai đoạn trước 1992 và lý thuyết nhập khẩu vốn và đánh giá cao nội tệ là cơ sở để giải thích tiến triển công nghiệp giai đoạn từ sau năm 1992.
       
          Sự nghiệp 15 năm cải cách kinh tế và chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước (1986-2000) đã đánh dấu những thành tựu rất khích lệ của nền kinh tế Việt nam nói chung và của khu vực sản xuất công nghiệp nói riêng. Trong chặng đường đó, sau giai đoạn khó khăn 1986-90, công nghiệp đã phát triển rất nhanh trong những năm 1991-95. Mặc dù tốc độ tăng trưởng công nghiệp đã liên tục giảm sút từ năm 1996 đến năm 1999, nhưng vẫn còn ở mức độ khá, và trong năm 2000 đã từng bước trở lại mức độ cao. Bài viết này sẽ tổng kết lại những tiến triển chính của sản xuất công nghiệp Việt nam trong chặng đường đổi mới vừa qua đồng thời vạch ra một số thách thức cần giải quyết khi bước vào thế kỷ 21.
          A- TIẾN TRIỂN CHUNG CỦA SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP
          1) Tăng trưởng sản xuất công nghiệp:
          Sau những khó khăn trong giai đoạn 1989-90 do tác động đồng thời của nhiều nhân tố trong đó đáng kể nhất là hậu quả kéo dài của khủng hoảng lạm phát, phá giá 1985-88 và cắt giảm viện trợ của khối Liên xô cũ, từ năm 1991 đến 1995, công nghiệp Việt nam đã thực sự đi vào quỹ đạo phát triển kinh tế thị trường và đạt được những tỷ lệ tăng trưởng ngày càng cao và ổn định. Nếu như tỷ lệ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp là âm: -3,3% năm 1989 và chỉ đạt 3,15% năm 1990 thì năm 1991 đã là 10,4% và năm 1995 đạt 14,5%. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng trưởng bình quân 13,4%/ năm thời kỳ 1991-1995, trong đó công nghiệp quốc doanh tăng 15,3%, khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 10,0%/ năm và khu vực công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 24,2%/ năm. Có thể nói, những năm 1991-95 là thời kỳ công nghiệp có tỷ lệ tăng trưởng cao nhất kể từ trước đến nay (trong thời kỳ 1976-80, công nghiệp chỉ tăng 0,6%/ năm, thời kỳ 1981-85: 9,5%, thời kỳ 1986-90: 6,1%, và thời kỳ 1996-2000 12,6%).
          Hai đặc trưng lớn nhất của công nghiệp trong thời kỳ 1986-1995 là: 1/ Mặc dù tỷ lệ tăng trưởng của khu vực công nghiệp quốc doanh cao hơn tỷ lệ tăng trưởng của khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh nhưng nếu loại bỏ thành phần kinh tế tập thể khỏi công nghiệp ngoài quốc doanh, chỉ tính công nghiệp tư nhân, cá thể và hỗn hợp thì thấy khu vực này đã phát triển cực kỳ nhanh ngay từ năm 1987 (tỷ lệ tăng trưởng bình quân 19%/năm so với 11,5% của công nghiệp quốc doanh); 2/ Tỷ lệ tăng trưởng của toàn bộ khu vực công nghiệp nội địa không có vốn nước ngoài chỉ bằng khoảng một nửa tỷ lệ tăng trưởng của khu vực công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này cho thấy khu vực công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng sản xuất công nghiệp nước ta ngay từ giai đoạn 1990-95.
          Nếu như trong thời kỳ 1990-95 sản xuất công nghiệp có xu hướng tăng lên rõ rệt thì từ năm 1996, tỷ lệ tăng trưởng công nghiệp đã chững lại và đi vào giai đoạn giảm sút. Tỷ lệ tăng trưởng sản xuất công nghiệp trong bốn năm 1996-99 vẫn đạt mức khá là 13,1%/ năm, nhưng giảm dần, trong đó công nghiệp quốc doanh chỉ đạt 10,2%/ năm, công nghiệp ngoài quốc doanh đạt 9,1%/ năm và khu vực công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 22,0%/ năm. Riêng năm 2000, tỷ lệ tăng trưởng sản xuất công nghiệp đã tăng trở lại 15,5%. So với thời kỳ 1991-95, khoảng cách tăng trưởng giữa công nghiệp quốc doanh và công nghiệp ngoài quốc doanh đã được thu hẹp. Khu vực công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vần tăng trưởng rất nhanh và ổn định, tiếp tục đóng vai trò quan trọng đối với phát triển công nghiệp nước ta.
          Trong giai đoạn khó khăn (1996-99), sản xuất công nghiệp có ba đặc điểm đáng chú ý. Thứ nhất, việc giảm tỷ lệ tăng trưởng đã diễn ra trong tất cả các khu vực công nghiệp (quốc doanh, ngoài quốc doanh, quốc doanh trung ương, quốc doanh địa phương, tập thể, tư nhân và cá thể), chỉ trừ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Thứ hai, một phần của tỷ lệ tăng trưởng công nghiệp kể trên có nguồn gốc từ những sản phẩm không tiêu thụ được, nhất là các sản phẩm do khu vực công nghiệp nhà nước sản xuất ra. Do vậy, tỷ lệ tăng trưởng thực chất của công nghiệp còn nhỏ hơn những con số nêu trên. Thứ ba, tỷ lệ tăng trưởng của công nghiệp khai thác (13,24%) cao hơn tỷ lệ tăng trưởng của công nghiệp chế biến (12,34%) dẫn tới một quá trình dịch chuyển cơ cấu công nghiệp kém hiệu quả, dựa quá nhiều vào khai thác tài nguyên thiên nhiên.
          Trước những diễn biến ngày càng xấu đi của công nghiệp và toàn nền kinh tế, từ giữa năm 1999, chính phủ Việt nam đã triển khai nhiều biện pháp mới để kích thích sản xuất và đầu tư, trong đó nổi bật nhất là áp dụng Luật doanh nghiệp tư 1/1/2000. Nhờ đó, sản xuất công nghiệp năm 2000 đã được cải thiện rõ rệt so với năm 1999.
          2) Thay đổi cơ cấu kinh tế
          Quá trình phát triển công nghiệp nêu trên đã tạo ra những thay đổi đáng kể về mặt cơ cấu kinh tế và thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá đất nước. Tỷ trọng công nghiệp (kể cả xây dựng) trong GDP sau khi giảm sút từ 28,9% năm 1986 xuống 22,7% năm 1990 đã tăng trở lại 28,8% năm 1995 và lên đến 35,6% năm 2000. Ngược lại, tỷ trọng nông nghiệp tăng từ 38,0% năm 1986 lên tới 46,3% năm 1988, rồi giảm liên tục trong thời kỳ từ năm 1989 đến nay, và chỉ còn 24,1% năm 2000. Trong thời kỳ 1986-95, thay đổi tỷ trọng khu vực dịch vụ ngược chiều khu vực nông nghiệp, chỉ từ năm 1996, tỷ trọng hai khu vực này mới cùng chung xu hướng giảm nhẹ. Như vậy, đã có một quá trình công nghiệp hoá và kèm theo đó là phát triển dịch vụ trong thập kỷ 90.
          Trong bản thân khu vực công nghiệp, cũng có những thay đổi cơ cấu đáng kể. Như sau này chúng ta sẽ lý giải, tự do hoá kinh tế và những đợt phá giá liên tục trong những năm 1988-91 đã mở ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, nhờ vậy, trước năm 1992, các ngành này đã phát triển nhanh nhất. Tỷ trọng các ngành công nghiệp điện và điện tử, chế biến lương thực thực phẩm, dệt, sản phẩm từ da và giả da, luyện kim màu và một số loại hàng tiêu dùng, hàng phục vụ nông nghiệp đã tăng lên. Ngược lại, các ngành công nghiệp nặng, nhất là luyện kim đen, cơ khí sản xuất máy móc thiết bị và các sản phẩm khác bằng kim loại, vật liệu xây dựng, giấy, sành sứ thuỷ tinh, có tỷ trọng giảm nhanh[1].
          Tình hình đã đảo ngược trong giai đoạn sau 1992 do hậu quả của chính sách ồ ạt nhập khẩu vốn nước ngoài và đánh giá cao tỷ giá thực. Từ năm 1992-93, các ngành công nghiệp nặng sử dụng nhiều vốn, ít lao động kể trên đã nhanh chóng phục hồi và phát triển rất nhanh, trong khi tỷ trọng các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động đã nhanh chóng giảm đi.
          3) Đầu tư cho công nghiệp
          Đầu tư đã đóng vai trò quan trọng đến quá trình tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu nêu trên. Những thay đổi về chính sách và cơ chế đầu tư từ năm 1986 đến nay đã tạo ra được môi trường kinh doanh ngày càng lành mạnh hơn cho sản xuất công nghiệp và từng bước đưa công nghiệp chuyển sang hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường, nhờ đó, các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã được khuyến khích bỏ vốn ra đầu tư vào công nghiệp. Tuy nhiên, cơ chế và các chính sách áp dụng trong công nghiệp còn chưa hoàn toàn hợp lý, thiếu đồng bộ và không được tính toán ở tầm dài hạn nên đồng thời cũng là một trong những nguyên nhân chính tạo ra những chuyển dịch cơ cấu kém hiệu quả, dẫn tới tỷ lệ tăng trưởng công nghiệp giảm sút dần như nêu ở trên.
          Trong thời kỳ 1991-95, tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 20,8 tỷ USD, trong đó riêng đầu tư cho công nghiệp chiếm 38,4%. Trong thời kỳ 1996-2000, tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 36 tỷ USD, trong đó riêng đầu tư cho công nghiệp chiếm 43,8%. Tỷ lệ tăng trưởng đầu tư công nghiệp lên đến 41,1%/ năm thời kỳ 1991-95 là mức cực kỳ cao, điều đó cũng có nghĩa là nền tảng của phát triển công nghiệp là tăng cường vốn đầu tư chứ không phải là hiệu quả, và nếu tỷ lệ tăng trưởng đầu tư cho công nghiệp không tăng, thậm chí giảm đi, thì tỷ lệ tăng trưởng sản xuất công nghiệp sẽ phải giảm. Thực tế, trong thời kỳ 1996-2000, tỷ lệ tăng trưởng đầu tư cho công nghiệp tụt xuống còn khoảng 14,5%/ năm, đã làm cho tăng trưởng công nghiệp giảm xuống.
          Tiến triển của cơ cấu đầu tư đi liền với thay đổi cơ cấu sản xuất công nghiệp. Tỷ trọng vốn đầu tư cho công nghiệp nặng đã tăng từ 70% năm 1986 lên 76,9% năm 1988 cùng với sự đi lên của sản xuất công nghiệp trong thời gian này. Trong các năm 1989-91, đầu tư cho công nghiệp nặng giảm nhanh, chỉ còn 67,4% năm 1991, trong khi tỷ trọng vốn đầu tư cho công nghiệp nhẹ tăng lên. Hậu quả là các ngành công nghiệp nặng suy thoái trong khi công nghiệp nhẹ phát triển. Từ năm 1992, vốn lại chuyển hướng vào công nghiệp nặng, chỉ khoảng 25-30% được dành cho công nghiệp nhẹ, dẫn tới đảo ngược tình hình tăng trưởng của hai khu vực này.
          4) Xuất khẩu của ngành công nghiệp
          Xuất khẩu của công nghiệp đã tăng lên rất nhanh trong thời kỳ đổi mới.  Tổng giá trị xuất khẩu công nghiệp đã tăng từ 299 triệu USD năm 1985 lên 1253 triệu USD năm 1990, 2928 triệu USD năm 1995 và khoảng 9700 triệu USD năm 2000. Nếu loại trừ vai trò của xuất khẩu dầu khí thì thấy xu hướng chung là tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu công nghiệp ngày càng cao. Mặt khác, tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghiệp trong tổng giá trị xuất khẩu cũng tăng lên nhanh. Xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nưóc ngoài, chủ yếu là công nghiệp, đang ngày càng trở nên cực kỳ quan trọng đối với nền kinh tế nước ta.
          Tuy nhiên, khi không tính đến xuất khẩu dầu thô, có hai giai đoạn trong đó tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu công nghiệp giảm. Giai đoạn 1 xảy ra vào năm 1991 khi sản xuất công nghiệp giảm sút trong bối cảnh phá giá cao, mất thị trường Đông Âu và tự do hoá kinh tế rộng rãi lúc đó, và giai đoạn 2 là các năm 1998-99, khi tỷ lệ tăng trưởng công nghiệp giảm đồng thời với nổ ra cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực Đông á. Kết quả là tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm công nghiệp trong tổng giá trị xuất khẩu đã giảm sút trong hai giai đoạn này.
          Trước năm 1989, khi dầu mỏ còn chưa tham gia xuất khẩu, đại bộ phận hàng công nghiệp xuất khẩu là sản phẩm công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp. Trong các năm 1990-93, xuất khẩu công nghiệp nặng đã tăng vọt nhờ vai trò của dầu thô, trong khi xuất khẩu hàng công nghiệp nhẹ giảm sút nhanh vì mất thị trường truyền thống ở Đông Âu. Vì vậy tỷ trọng xuất khẩu công nghiệp nặng tăng vọt từ 49,2% năm 1990 lên 65,8% năm 1993, trong khi tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm công nghiệp nhẹ tụt từ 50,8% năm 1990 xuống 34,2% năm 1993. Từ năm 1994 đến nay, tình hình lại hoàn toàn đảo ngược. Tỷ trọng xuất khẩu công nghiệp nhẹ tăng vọt, lên tới 61,6% trong khi tỷ trọng xuất khẩu công nghiệp nặng giảm xuống còn 38,4%. Rõ ràng cơ cấu xuất khẩu công nghiệp đã biến động cực kỳ mạnh trong 15 năm qua.
          Những năm gần đây là giai đoạn đặc biệt khó khăn đối với xuất khẩu công nghiệp Việt nam. Các thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt nam (trong đó 70% là khu vực châu á) đều bị thu hẹp do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế khu vực trong khi việc thâm nhập vào các thị trường mới còn hết sức khó khăn. Hàng công nghiệp xuất khẩu của Việt nam còn chủ yếu là nguyên liệu thô hoặc sơ chế, có giá trị gia tăng thấp và phụ thuộc rất lớn vào giá cả trên thị trường quốc tế. Công nghiệp chế biến chưa có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế do số lượng hạn chế, chất lượng sản phẩm kém và giá thành cao.
          Trong 10 mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn nhất của nền kinh tế, công nghiệp liên tục chiếm tỷ trọng lớn với 5 loại sản phẩm: Hàng dệt may (xuất năm 2000 là 1,9 tỷ USD), dầu thô (3,5 tỷ), giầy dép (1,5 tỷ), hàng điện tử (0,75 tỷ) và than đá (0,11 tỷ). Năm mặt hàng còn lại là gạo, thuỷ sản, cà phê, cao su và hạt điều. 5 mặt hàng công nghiệp kể trên chiếm 73,9% tổng giá trị 10 mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn nhất năm 2000, hay 56,2% tổng giá trị xuất khẩu toàn nền kinh tế.
          B- NGUYÊN NHÂN CỦA QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TRONG GIAI ĐOẠN CẢI CÁCH
          Toàn bộ những tiến triển về tăng trưởng sản xuất, thay đổi cơ cấu, đầu tư và xuất khẩu của công nghiệp nêu trên có thể được lý giải bằng hai lý thuyết kinh tế chính: Lý thuyết tự do hoá kinh tế đi kèm phá giá nội tệ và lý thuyết nhập khẩu vốn và đánh giá cao nội tệ, trong đó lý thuyết tự do hoá kinh tế đi kèm phá giá nội tệ là cơ sở để giải thích tiến triển công nghiệp giai đoạn trước 1992 và lý thuyết nhập khẩu vốn và đánh giá cao nội tệ là cơ sở để giải thích tiến triển công nghiệp giai đoạn từ sau năm 1992.
          1) Tự do hoá kinh tế đi kèm phá giá nội tệ: Nguyên nhân chính của suy thoái công nghiệp giai đoạn trước năm 1992
          Đến trước năm 1988, do hậu quả của cuộc cải cách giá lương tiền tháng 9/1985, nền kinh tế Việt nam đang chìm sâu trong cơn khủng hoảng tồi tệ chưa từng có từ trước đến nay. Các mất cân đối vĩ mô ngày càng trầm trọng, đặc biệt là cán cân thanh toán quốc tế. Từ mùa hè đến cuối năm 1988, một mặt, do khan hiếm ngoại tệ, tỷ giá chính thức đã được điều chỉnh nhiều lần, tính chung tới 715,2% trong năm 1988, kéo theo lạm phát tăng trở lại 393,8%. Trong những năm tiếp theo 1989-1991, tỷ lệ phá giá hàng năm luôn luôn cao hơn tỷ lệ lạm phát, dẫn tới kết quả là tỷ giá thực được phá giá ngày càng cao. Trong thời gian này, việc giảm dần tiến tới xoá bỏ toàn bộ viện trợ của khối Liên xô cũ và sự cạn kiệt các dự trữ nguyên nhiên vật liệu đã buộc các doanh nghiệp nhà nước phải tìm mọi cách xoay xở nguồn ngoại tệ để có thể nhập khẩu đầu vào từ khu vực đồng tiền chuyển đổi, kéo theo tỷ giá đô la trên thị trường tự do tăng vọt. Mặt khác, cũng ngay từ giữa năm 1988 đến đầu năm 1989, chính phủ việt nam đã thực hiện tự do hoá phần lớn giá cả hàng hoá và dịch vụ, nới lỏng kiểm soát các hoạt động ngoại thương, và thống nhất tỷ giá chính thức với tỷ giá hình thành trên thị trường tự do. Từ tháng 3/1989, chính phủ còn nâng lãi suất tiết kiệm lên cao hơn nhiều so với tỷ lệ lạm phát, và nâng lãi suất cho vay lên trên lãi suất huy động. Tất cả những chính sách trên đã có ảnh hưởng rất mạnh tới sản xuất công nghiệp và toàn nền kinh tế.
          Trong thực tế, khu vực sản xuất công nghiệp quốc doanh bị ảnh hưởng trầm trọng nhất. Vào thời điểm đó, khu vực này đã được giao khá rộng rãi quyền tự chủ sản xuất kinh doanh nhưng lại phụ thuộc rất nặng nề vào thị trường trong nước được bảo hộ và các đầu vào rẻ tiền nhập khẩu từ khối Liên xô cũ. Hậu quả là các cuộc phá giá mạnh nối tiếp nhau và những bước tự do hoá giá cả, ngoại thương nhanh chóng trong những năm 1988-91 đã không làm tăng sức cạnh tranh của khu vực công nghiệp quốc doanh, ngược lại, chúng còn đẩy khu vực này vào cuộc suy thoái trầm trọng vì phá giá đã làm chi phí sản xuất tăng lên quá nhanh trong khi tự do hoá ngoại thương đã để cho hàng ngoại tràn vào thị trường nội địa, cạnh tranh gay gắt với hàng công nghiệp sản xuất trong nước. Tỷ lệ tăng trưởng sản xuất công nghiệp quốc doanh đang từ 14,3% năm 1988 đã tụt xuống âm: -3,3% năm 1989, và chỉ trở lại dương nhẹ 3,1% năm 1990. Những suy thoái của sản xuất công nghiệp quốc doanh nêu trên còn được giảm nhẹ nhờ việc chính phủ quay trở lại chế độ trợ cấp ngân sách trực tiếp cho khu vực này, dẫn tới hậu quả là tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP tăng lên đến 10,3% năm 1989 và 6,4% năm 1990.
          Trái lại, phá giá nội tệ và những chính sách kinh tế hướng theo cơ chế thị trường nêu trên đã có những ảnh hưởng rất tích cực tới khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh. Vì khu vực này sử dụng ít vốn, nhiều lao động và chi phí tiền lương chiếm tỷ trọng cao trong giá thành sản xuất nên những đợt phá giá liên tiếp thời kỳ 1988-91 đã làm giảm mạnh chi phí sản xuất của công nghiệp ngoài quốc doanh, cho phép các sản phẩm công nghiệp ngoài quốc doanh có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm của công nghiệp quốc doanh và hàng nhập ngoại dù rằng năng suất lao động của khu vực này còn rất thấp. Kết quả là sản xuất công nghiệp tư nhân, cá thể và hỗn hợp đã tăng trưởng tới 31,8% năm 1988, 34,5% năm 1989, 10,4% năm 1990 và 26,7% năm 1991, những tỷ lệ cao chưa từng có. Phá giá và những chính sách kinh tế kèm theo đã làm tăng nhanh xuất khẩu sản phẩm công nghiệp nhẹ, phần lớn là hàng tiểu thủ công nghiệp và thủ công mỹ nghệ do khu vực ngoài quốc doanh đảm nhận. Rõ ràng tính năng động của khu vực ngoài quốc doanh đã được công nhận rộng rãi, dù rằng các số liệu thống kê chính thức còn chưa đánh giá hết những thành tựu của khu vực này vì nhiều hoạt động của nó còn chưa được đưa vào tính toán tăng trưởng GDP.
          Từ năm 1988, công nghiệp Việt Nam xuất hiện một ngành mới là khai thác dầu thô. Nhiều nhà kinh tế đã đặc biệt chú ý đến vai trò của ngành này đối với nền kinh tế việt nam. Thực tế, công nghiệp dầu mỏ đã đóng góp tới 7,2% tổng thu ngân sách quốc gia và 1,1% GDP ngay trong năm 1989. Trong các năm 1990-1991, dầu thô đã đóng góp tới 13,1% và 20,8% tổng thu ngân sách và 2,0% và 2,8% tổng GDP. Thu nhập từ dầu thô cũng đã mở ra những điều kiện rất thuận lợi cho công cuộc đấu tranh chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô để công nghiệp dễ dàng phát triển.
          Tuy nhiên, trong thời gian này, thu nhập từ dầu thô đã không tạo ra hiện tượng đánh giá cao tỷ giá thực và chưa gây ra cái gọi là "triệu chứng Hà lan[2]" ở Việt nam vì toàn bộ thu nhập từ dầu thô chỉ đủ bù đắp phần cắt giảm viện trợ của khối Liên xô cũ, tương đương với 2-3% GDP[3]. Mặt khác, vì Việt nam đã nhanh chóng tìm ra các thị trường khác để xuất khẩu hàng hoá nên về nguyên tắc, sự sụp đổ của khối Liên xô cũ không có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế nước ta, song riêng đối với công nghiệp, trên thực tế đã có ảnh hưởng khá mạnh vì thu nhập dầu thô không được nhà nước đầu tư bao cấp cho công nghiệp như viện trợ của khối Liên xô trước đây. Hơn nữa, thị trường xuất khẩu của công nghiệp bị co hẹp mặc dù thị trường xuất khẩu của nông nghiệp được mở rộng rất mạnh.
          Như vậy, bên cạnh tác động của sự sụp đổ của khối Liên xô cũ, những diễn biến kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng trong giai đoạn trước năm 1992 chủ yêú phản ánh tác động của các chính sách phá giá nội tệ và tự do hoá kinh tế, gồm cả nới lỏng rất nhanh kiểm soát ngoại thương và thị trường tài chính. Do hậu quả của tự do hoá kinh tế và phá giá cao tỷ giá thực, tỷ trọng khu vực nông nghiệp và dịch vụ đã tăng lên rất nhanh trong khi tỷ trọng công nghiệp giảm đi như đã nêu ở trên.
          Trong công nghiệp, tỷ trọng các ngành công nghiệp gắn với khai thác tài nguyên thiên nhiên hoặc sử dụng nhiều lao động đã tăng lên trong khi tỷ trọng các ngành công nghiệp sử dụng nhiều vốn như cơ khí, luyện kim, hoá chất... giảm đi. Những chuyển đổi cơ cấu công nghiệp này đồng thời phản ánh quá trình tự phát điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư và phân bổ lại các nguồn lực khác như đất đai, lao động, vật tư, giữa các khu vực trong nền kinh tế và giữa các ngành trong bản thân công nghiệp. Ngoài nguyên nhân bao trùm là phá giá cao tỷ giá thực làm giảm đáng kể chi phí sản xuất, sự phát triển mạnh mẽ của khu vực nông nghiệp, dịch vụ và công nghiệp ngoài quốc doanh còn nhờ mở ra cơ chế kinh tế thị trường, xoá bỏ cấm chợ ngăn sông và tự do hoá giá cả, nhất là nhờ điều chỉnh giá tương đối theo hướng có lợi cho người sản xuất nông nghiệp và nhờ Nghị quyết 10 tháng 6/1988 của Bộ Chính trị Đảng CSVN về giao đất cho hộ nông dân. Tiếp đến, chính bản thân sự phát triển trước đó của nông nghiệp, khai thác dầu thô và các ngành công nghiệp mũi nhọn lại thúc đẩy các khu vực trên phát triển nhanh hơn. Khi lao động, đất đai, vốn và các nguồn lực khác được thu hút vào những khu vực trên[4], các ngành công nghiệp truyền thống, chủ yếu là công nghiệp nặng do khu vực quốc doanh kiểm soát, tất yếu phải suy giảm tỷ lệ tăng trưởng.
          Tóm lại, trong những năm đầu chuyển đổi kinh tế, công nghiệp Việt nam bị ảnh hưởng đồng thời bởi nhiều nhân tố khác nhau, trong đó có sự cắt giảm viện trợ của khối Liên xô cũ, tăng nhanh thu nhập từ dầu mỏ, phá giá nội tệ, và tự do hoá kinh tế, trong đó hai nhân tố chính là phá giá nội tệ và tự do hoá kinh tế. Cả hai nhân tố này đều có tác dụng bất lợi cho sản xuất công nghiệp, phần lớn là các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghiệp nặng, và điều chỉnh cơ cấu ngành này theo hướng có lợi cho sự phát triển công nghiệp ngoài quốc doanh. Hậu quả là tỷ lệ tăng trưởng và xuất khẩu công nghiệp rất thấp cho đến trước 1992.
          2) Ảnh hưởng của nhập khẩu vốn và đánh giá cao nội tệ tới tăng trưởng công nghiệp từ năm 1992.
          Trái ngược hoàn toàn với tình hình diễn ra trước năm 1992, từ năm 1992-93, kinh tế Việt nam nói chung và công nghiệp Việt nam nói riêng đã phát triển theo lý thuyết nhập khẩu vốn nước ngoài và đánh giá cao ngoại tệ. Ngay từ những năm 1991-92, trong bối cảnh thiếu nghiêm trọng nguồn vốn trong nước do tỷ lệ tiết kiệm nội địa quá thấp, thị trường vốn còn sơ khai và chính sách tiền tệ chặt, các nhà đầu tư trong nước đã phải xoay xở tìm kiếm nguồn vốn từ bên ngoài, trước tiên là huy động vốn của người việt tại hải ngoại. Tiếp đó, việc tăng vọt khối lượng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp từ năm 1992-93, sự trở lại của nguồn vốn ODA từ năm 1993 và nhất là chấm dứt cấm vận tài chính của Mỹ chống Việt nam từ năm 1994, đã làm cho một lượng ngoại tệ rất lớn chảy vào Việt nam. Cũng từ năm 1992-93, tác dụng tiêu cực của cắt viện trợ của khối Liên xô cũ đã giảm hẳn trong khi vai trò của công nghiệp dầu thô tiếp tục tăng (thu nhập dầu thô tương đương với 3,8% GDP các năm 1992-1993 và 3,1% GDP năm 1994).
          Luồng vốn nhập ngoại này đã cho phép nâng cao Việt nam nâng cao được tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư nôị địa, từ đó tăng nhanh đầu tư cho công nghiệp và toàn nền kinh tế, làm cho tỷ lệ tăng trưởng của công nghiệp và toàn nền kinh tế tăng lên rất nhanh trong những năm 1992-95. Trên thực tế, trong các năm từ 1992 đến 1995, một tỷ lệ quan trọng vốn nước ngoài đã được sử dụng để nhập khẩu máy móc thiết bị tiên tiến, công nghệ mới và các vật tư cần thiết phục vụ cho chiến lược phát triển hướng về xuất khẩu và một phần thay thế nhập khẩu, làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp nội địa, đồng thời khai thác, sử dụng được nhiều tiềm năng của đất nước và cơ sở vật chất sẵn có trong công nghiệp. Đây chính là nguyên nhân cơ bản cho phép công nghiệp Việt nam đạt được những tỷ lệ tăng trưởng rất cao trong những năm 1992-95.
          Tuy nhiên, chiến lược phát triển công nghiệp dựa quá nhiều vào vốn bên ngoài cùng với những yếu kém trong công tác quản lý kinh tế và đổi mới hoạt động của khu vực kinh tế quốc doanh cũng lại chính là nguyên nhân dẫn đến suy giảm tỷ lệ phát triển sản xuất công nghiệp trong những năm gần đây. Một mặt, vốn nước ngoài sau giai đoạn đầu làm tăng tỷ lệ tiết kiệm nội địa, đã bắt đầu có tác dụng tiêu cực tới tỷ lệ này ngay từ năm 1995, nhất là từ năm 1996, kéo theo giảm tỷ lệ đầu tư trên GDP và giảm nhanh tỷ lệ tăng trưởng đầu tư công nghiệp như chúng ta đã thấy ở trên. Mặt khác, luồng ngoại tệ ồ ạt chảy vào đã làm tăng tiêu dùng nội địa ngoài tầm kiếm soát, kéo theo tăng chi phí tiền lương, tăng thu nhập và tăng các chi phí khác, tức là tăng giá thành sản phẩm và làm cho công nghiệp, nhất là công nghiệp nặng, mất dần sức cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa. Tai hại hơn, lạm dụng vốn nước ngoài đã làm tăng giá nội tệ[5], dẫn tới giảm lợi thế so sánh quốc tế của khu vực sản phẩm thương mại quốc tế được (tradable goods) và mở ra những khó khăn ngày càng gay go cho sự phát triển của các ngành công nghiệp quan trọng sống còn của đất nước vì chúng luôn luôn phải chịu sự cạnh tranh rất mạnh của hàng hoá nhập khẩu, nhất là các hàng hoá nhập khẩu bất hợp pháp.
          Hậu quả đã đi xa hơn. Dưới sức ép cạnh tranh khốc liệt của hàng nhập ngoại, các nhà đầu tư việt nam và nước ngoài đã không còn dám đầu tư vào những lĩnh vực sản xuất công nghệ cao, đầu tư lớn nữa, mà chuyển vốn đầu tư của mình vào khu vực hàng không thương mại quốc tế được (non tradable goods), gồm bất động sản, thương mại, dịch vụ và du lịch... Xu hướng này một mặt làm tăng rất nhanh giá đất đai, dịch vụ, bất động sản và tiền lương so với tăng giá các sản phẩm công nghiệp như chúng ta đã chứng kiến trong những năm 1992-1995, mặt khác, khi nội tệ đã lên giá quá cao và vốn, lao động, vật tư, và các nguồn lực khác di chuyển mạnh ra khỏi công nghiệp để tập trung vào các ngành trên thì cũng là dấu hiệu báo trước sản xuất công nghiệp sẽ đi xuống. Thực tế, sản xuất công nghiệp đã chững lại ngay từ năm 1996 và sau đó liên tục đi xuống[6].
          Tóm lại, quá trình suy giảm tỷ lệ tăng trưởng sản xuất công nghiệp trong thời gian gần đây có nguồn gốc từ chính sách huy động vốn và hướng dẫn dịch chuyển cơ cấu vốn đầu tư xã hội. Vốn nước ngoài vào quá nhiều trong khi sử dụng kém hiệu quả và duy trì tỷ giá cố định quá dài, đã dẫn đến đánh giá cao nội tệ, làm giảm sút nhanh lợi thế so sánh quốc tế của sản phẩm công nghiệp Việt nam, đưa công nghiệp việt nam đi vào giai đoạn suy giảm. Theo phân tích trên, mặc dù những khía cạnh bất lợi của chính sách công nghiệp đã được che giấu bởi sự phát triển nhanh của ngành này trong giai đoạn đầu nhưng sự suy giảm của nó là không thể tránh khỏi.


[1] Hai trường hợp đặc biệt : Tỷ trọng công nghiệp nhiên liệu tăng vọt là nhờ vai trò của dầu khí, tỷ trọng công nghiệp điện tăng là nhờ đưa vào sử dụng các công trình đă đầu tư trong quá khứ, nhất là nhà máy thuỷ điện Hoà bình do Liên xô giúp đỡ xây dựng.
[2] Xem lý thuyết về triệu chứng này trong : Corden W. M. et Neary J.P. (1982) "Booming Sector and De-Industrialization in a Small Open Economy", Economic Journal, 92, pp. 825-848, United Kingdom.
[3] Fforde A. et De Vylder S. (1996) "From Plan to Market - Economic Transition of Vietnam", Westview Press
[4] Trong thời kỳ này, chúng ta đã chứng kiến những đợt di chuyển lao động từ thành thị về nông thôn để phát triển sản xuất nông nghiệp, những đợt di chuyển vốn từ công nghiệp nặng sang công nghiệp nhẹ, từ công nghiệp quốc doanh sang công nghiệp ngoài quốc doanh, nhất là sang công nghiệp phục vụ nông nghiệp, dịch vụ và sản xuất hàng tiêu dùng. Nhờ những chuyển động trên, sản xuất tư nhân và cá thể đã tăng trưởng rất nhanh so với khu vực quốc doanh.
[5] Theo số liệu trong bảng 3, từ năm 1992 đến 1996, tỷ lệ lạm phát luôn luôn cao hơn nhiều so với tỷ lệ phá giá, tính gộp lại sẽ thấy đồng tiền việt nam đã lên giá rất cao và kéo dài so với đồng đô la mỹ.
[6] Số liệu cũng cho thấy công nghiệp vật liệu xây dựng sau khi giảm sút rất nhanh trong thời kỳ 1988-91 đã tăng vọt lên kể từ 1992, tức là đã bùng nổ xây dựng như lý thuyết về sốc bên ngoài do nhập khẩu vốn ồ ạt gây ra. Tình hình tương tự đã xảy ra trong ngành dịch vụ. Bùng nổ xây dựng và dịch vụ chỉ chậm lại từ năm 1995-96 khi tăng trưởng luồng vốn nước ngoài giảm đi. Như vậy, có thể tin rằng đã xảy ra nhiều dấu hiệu của triệu chứng Hà lan ở Việt nam trong thời kỳ này, tức là những dấu hiệu báo trước nền kinh tế và công nghiệp Việt nam sẽ phải đi vào giai đoạn suy giảm nếu không có những thay đổi lớn về chính sách.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét